Sunday, June 30, 2024

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA


Ngày 30/6/1947: “Mỗi đồng chí phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong Điện văn gửi Ban chấp hành Đảng Dân chủ Việt Nam, ngày 30 tháng 6 năm 1947. Đây là thời điểm, sau khi nước nhà mới giành độc lập chưa được bao lâu, thực dân Pháp lại dã tâm quay lại xâm lược nước ta.

Lời dạy “Mỗi đồng chí phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào” có ý nghĩa thiết thực, không chỉ là yêu cầu đối với các đồng chí trong Đảng Dân chủ, mà còn suy rộng ra tất cả các đồng chí cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, mỗi người phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào. Phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân; phải gương mẫu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng, tiếp tục đưa đất nước phát triển tiến lên. Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nêu cao tính tiền phong gương mẫu, tích cực, tự giác trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động mà còn là yêu cầu đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đề cao trách nhiệm, phát huy tốt tính tiền phong gương mẫu, gương mẫu đi đầu trong thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thật sự là những cán bộ có tâm, có tầm, vì nước, vì dân, là tấm gương sáng để quần chúng nhân dân học tập và làm theo.

Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mỗi cán bộ, chiến sĩ càng phải ra sức học tập và thực hiện tốt lời căn dặn của Bác. Trên từng cương vị, chức trách được giao, mỗi quân nhân phải nâng cao nhận thức, kiên định lập trường cách mạng; không ngừng phấn đấu vươn lên vượt qua khó khăn, gian khổ; ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Càng trong khó khăn, gian khổ bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng phải được khẳng định, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.



Friday, June 28, 2024

 

CHIẾN SĨ MỚI TRẦN LÊ QUỐC ĐẠT

XỨNG DANH NGƯỜI ĐẢNG VIÊN

 

Trung úy Huỳnh Văn Đạt

Chính trị viên Đại đội 8, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Thực hiện lời dạy của Người, đội ngũ đảng viên ở đơn vị nói chung, đảng viên là những chiến sĩ mới nói riêng luôn thực sự là những tấm gương tiêu biểu về sự tiên phong, nhất là trong thực hiện những nhiệm vụ đột xuất, khó khăn, vất vả; trong đó có thể kể đến đồng chí Binh nhì Trần Lê Quốc Đạt, chiến sĩ Đại đội 8, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2, Sư đoàn 9.

Sinh năm 2004 trong một gia đình nông dân ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Hoàn cảnh gia đình và truyền thống quê hương đã thôi thúc Đạt cần phải sống có lý tưởng, có mục tiêu rõ ràng để trở thành người có ích cho xã hội. Do vậy khi còn ngồi trên ghế nhà trường anh luôn tích cực tu dưỡng, rèn luyện, sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông, Đạt luôn tích cực tham gia các hoạt động phong trào ở địa phương. Với những thành tích đó tháng 02 năm 2024 anh vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xác định là đảng viên, càng phải gương mẫu, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ, cùng với mơ ước cháy bỏng là được trở thành người chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam để đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đạt đã tình nguyện viết đơn, lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự và được biên chế về Đại đội 8...

Những ngày đầu học tập, rèn luyện tại đơn vị, mặc dù gặp nhiều khó khăn do yêu cầu huấn luyện cường độ cao của môi trường quân sự, song Đạt vẫn luôn nỗ lực, cố gắng trong học tập, rèn luyện. Được sự giúp đỡ, hướng dẫn, động viên của cán bộ đơn vị và đồng chí, đồng đội, Đạt đã không ngừng tiến bộ về mọi mặt. Nhận thức đúng được mục tiêu, nhiệm vụ huấn luyện, Đạt đã xác định điều đầu tiên cần rèn luyện đó là phẩm chất đạo đức, lối sống, coi đó là cơ sở để hoàn thiện nhân cách người lính “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì vậy, Đạt luôn tự giác xây dựng cho mình lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, luôn đoàn kết và hòa đồng với tập thể; thương yêu giúp đỡ đồng chí, đồng đội, nhất là những đồng chí có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Hàng tháng, Đạt đều được xếp loại rèn luyện tốt, là gương sáng trong học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống để các chiến sĩ khác noi theo.

Tuy nhiệm vụ huấn luyện có nhiều khó khăn, vất vả, nhưng Đạt đã nhanh chóng thích nghi. Anh thường xuyên tìm tòi, học hỏi phương pháp luyện tập cho phù hợp với điều kiện sức khỏe của bản thân. Nhờ kiên trì trong huấn luyện, dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của cán bộ đơn vị, Đạt đã nhanh chóng tìm được phương pháp tự học, tự rèn hiệu quả. Sau gần 3 tháng huấn luyện chiến sĩ mới, đảng viên Trần Lê Quốc Đạt đã có nhiều cố gắng và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ như: Kiểm tra nhận thức chính trị, bắn súng AK bài 1, đánh thuốc nổ, ném lựu đạn đều đạt giỏi.

Chia sẻ cảm xúc của mình, Quốc Đạt nói: “Khi mới vào đơn vị bản thân thấy có rất nhiều cái mới lạ, với môi trường quân ngũ đầy kỷ luật, kỷ cương phần nào cũng làm cho bản thân thấy không được thoải mái, tự do như ở bên ngoài, tuy nhiên ở đây có tình cảm, tấm lòng, sự quan tâm, chỉ bảo nhiệt tình của chỉ huy đơn vị, sự yêu thương, gắn bó của đồng chí, đồng đội, từ đó đã giúp tôi nhanh chóng hòa nhập được với môi trường quân đội. Giờ đây tôi thấy bản thân mình đã trưởng thành rất nhiều, từ đi đứng, xưng hô chào hỏi, thực hiện nhiệm vụ cũng được nhanh nhẹn hơn. Tự dặn với lòng là một người đảng viên, người chiến sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi quyết tâm không lùi bước trước khó khăn, thử thách, gương mẫu đi đầu trong lời nói và hành động, nêu gương trước đồng chí, đồng đội, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”.

Với những kết quả đã đạt được trong học tập, rèn luyện vừa qua, cùng với ý chí quyết tâm vượt qua chính mình để khẳng định bản thân, để cống hiến cho Tổ quốc, tin tưởng rằng, thời gian tới Trần Lê Quốc Đạt sẽ gặt hái được nhiều thành tích hơn nữa trong học tập và rèn luyện, xứng đáng là một người đảng viên gương mẫu, người chiến sĩ Trung đoàn 2 - Đoàn Đồng Xoài hai lần Anh hùng./.

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA



Ngày 26/6/1959

 “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn có tinh thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân” [1].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học, ngày 26 tháng 6 năm 1959. Đây là thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Lời dạy của Bác có ý nghĩa vô cùng to lớn, đã  chỉ rõ cho nhân dân ta nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng nhận thức đúng đắn, đầy đủ bản chất của chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã lựa chọn; thức tỉnh tinh thần toàn dân tộc, trong đó có sinh viên, phải nêu cao ý thức và có tinh thần xã hội chủ nghĩa, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc; đồng thời, kiên quyết đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội, một trong những cản trở lớn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện lời dạy của Bác, lớp lớp sinh viên Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ, ra sức học tập, rèn luyện tốt, chăm chỉ lao động và vượt qua khó khăn, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân để trở thành chủ nhân tương lai của nước nhà, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cách mạng.

Ngày nay, cả nước đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nhiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị, là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tự phê bình và phê bình, đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, từng cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tích cực học tập, rèn luyện, phát huy tinh thần làm chủ tập thể, luôn đặt công việc, lợi ích của tập thể lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân; không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ; làm chủ vũ khí trang bị; kiên quyết đấu tranh với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, thờ ơ, vô cảm… sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người quân nhân cách mạng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.



[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.247.

Thursday, June 27, 2024

 

LỮ ĐOÀN PHÒNG KHÔNG 71, 53 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU

VÀ TRƯỞNG THÀNH (15/6/1971-15/6/2024)

Thượng tá Nguyễn Văn Ước

Chủ nhiệm Chính trị, Lữ đoàn 71

Lữ đoàn Phòng không 71, tiền thân là Trung đoàn pháo Phòng không 71, thuộc Đoàn pháo binh Biên Hòa (Đoàn 75), được thành lập ngày 15/6/1971 tại Km số 19, đường số 7, phía Đông Nam tỉnh Stung Treng - Campuchia. Tháng 8 năm 1973, Trung đoàn được Bộ Tư lệnh Miền điều về Đoàn Phòng không 77 (Đoàn 77). Đến ngày 20/7/1974, Trung đoàn được điều chuyển về nằm trong đội hình của Quân đoàn 4. Ngày 18/02/1975, Trung đoàn Phòng không 71 được phát triển thành Lữ đoàn Phòng không 71.

Lữ đoàn Phòng không 71

Là Trung đoàn pháo Phòng không đầu tiên trên chiến trường Miền Đông Nam Bộ (B2), ra đời đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng, chuẩn bị cho các trận đánh lớn, quy mô cấp sư đoàn, quân đoàn ở chiến trường miền Đông Nam Bộ. Ngay sau khi thành lập, Trung đoàn đã nhanh chóng ổn định tổ chức, biên chế, hiệp đồng chặt chẽ; vừa huấn luyện, củng cố xây dựng đơn vị vừa chủ động đánh địch.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Lữ đoàn đã tham gia 150 trận đánh độc lập, bảo vệ an toàn những mục tiêu trọng yếu được giao; đã trực tiếp tham gia các chiến dịch, các trận đánh quy mô cấp sư đoàn, quân đoàn ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, chi viện đắc lực cho các đơn vị bạn trong đội hình binh chủng hợp thành, như: Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972; Chiến dịch Lộ 7 - tây Bến Cát (1974); đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng (1973-1974); hiệp đồng cùng Sư đoàn Bộ binh 9 tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng (1973 - 1974); tham gia Chiến dịch Đường 14 - Phước Long (1974-1975); tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đất nước hoà bình chưa được bao lâu, lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh ở Biên giới Tây Nam. Tập đoàn phản động Pôn Pốt Iêngxari tiến hành tấn công lấn chiếm đất đai, nhà cửa, giết hại đồng bào ta ở dọc biên giới Tây Nam Tổ quốc. Nằm trong đội hình của Quân đoàn 4, Lữ đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979), Đảng uỷ Lữ đoàn đã xác định rõ: “Nhiệm vụ hàng đầu của đơn vị là bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và tính mạng, tài sản của nhân dân, coi đó là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đối với Tổ quốc”. Từ ngày 07/01/1979 - 17/5/1983 Lữ đoàn tham gia làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia lật đổ ách thống trị của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêngxari, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng, vừa chiến đấu truy quét tàn quân địch, tham gia xây dựng lực lượng cách mạng giúp bạn vừa cứu đói, góp phần hồi sinh đất nước chùa tháp.

Trong suốt quá trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn với ý chí quyết tâm cao đã có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nhiều ứng dụng, vận dụng linh hoạt cách đánh, tạo nên những trận đánh có hiệu suất cao, lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bắn rơi, bắn cháy 162 máy bay các loại; bắt sống 2 giặc lái, bảo vệ an toàn các mục tiêu đảm nhiệm, cùng các đơn vị bộ binh tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu trên 10.000 tên địch, bắt sống 250 tên, bắn chìm, bắn cháy 120 tàu, xuồng chiến đấu; bắn cháy, phá huỷ 550 xe quân sự, 257 khẩu pháo, 50 trạm ra đa, dàn tên lửa, hàng chục lô cốt, sở chỉ huy địch, hàng nghìn tấn vũ khí, xăng dầu, trang bị quân sự của địch; cùng các binh chủng bạn và bộ binh thu 131 khẩu pháo các loại, 58.000 viên đạn pháo, 91 xe quân sự, 66.000 lít xăng dầu và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Lữ đoàn có 04 tập thể và 05 cá nhân được phong tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND; nhiều tập thể, cá nhân được tặng Huân, Huy chương các loại. Để có được những chiến công và thắng lợi vẻ vang đó, cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn đã phải đổ biết bao trí tuệ, mồ hôi, công sức, bằng cả xương máu của mình; có 276 liệt sĩ, 237 thương bệnh binh cùng với hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu, xây dựng nên 16 chữ vàng truyền thống: “Kiên cường dũng cảm, đoàn kết, hiệp đồng, tự lực, tự cường, đã đánh là thắng!” đó là niềm tự hào cho các thế hệ hôm nay và mãi mãi về sau.

Năm 1983, sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế về nước. Cùng với giải quyết các chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sĩ. Lữ đoàn bắt tay ngay vào củng cố sắp xếp tổ chức, biên chế, tập trung huấn luyện, xây dựng đơn vị VMTD theo hướng “Cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”. Trong những năm qua luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Trải qua gần 53 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành Lữ đoàn đã lập được nhiều thành tích và chiến công vang dội, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Sự đóng góp to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn pháo Phòng không 71 cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Quân đoàn, các địa phương trên địa bàn nhiều lần khen thưởng tiêu biểu:

Ngày 21/12/2009, Lữ đoàn vinh dự được Nhà nước tuyên dương Danh hiệu Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; được tặng Huân chương Quân công hạng Ba; Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng Ba;

Được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen “Đơn vị đạt thành tích xuất sắc trong huấn luyện phục vụ chiến đấu, xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, củng cố Quốc phòng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

Bộ Quốc phòng tặng Cờ thi đua Quyết thắng năm 1975, 2013, 2014; 2022; Danh hiệu “Đơn vị HL giỏi” 5 năm liền 2011 - 2015 và "Đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực, tiêu biểu” các năm 2012, 2013, 2015, 2017, 2018, 2019, 2022, 2023;

Quân chủng Phòng không Không quân tặng Cờ đơn vị đạt giải Nhất Hội thao diễn tập chiến thuật bắn đạn thật, Lực lượng Phòng không ba thứ quân; giải Nhất (năm 2013), giải Ba (năm 2019) Hội thi kíp chiến đấu Sở Chỉ huy; đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác Phòng không Lục quân năm 2022, 2023.

Quân đoàn tặng Cờ “Đơn vị Quyết thắng” năm 2015, 2023 và nhiều bằng khen, giấy khen các loại;

Được UBND Thành phố Hồ Chí Minh tặng Bằng khen “Đơn vị ANTQ của Thành phố”; “Nhiều năm liền góp phần thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ của thành phố”;

Được UBND tỉnh Bình Dương tặng Bằng khen đơn vị “Thực hiện tốt phong trào Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; Bằng khen đơn vị “Đã có thành tích xuất sắc trong việc phối hợp thực hiện công tác dân vận trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2013 - 2015” và giai đoạn 2016 - 2018; Bằng khen đơn vị “Đã có thành tích trong công tác hỗ trợ phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Bình Dương”;

Được UBND thành phố Dĩ An, Thuận An tặng nhiều giấy khen trong việc phối hợp thực hiện công tác dân vận trên địa bàn.

Bên cạnh thành tích của Lữ đoàn, có hàng trăm tập thể, hàng ngàn cá nhân tiêu biểu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bộ Quốc phòng, Quân đoàn, Lữ đoàn, các địa phương trên địa bàn tặng nhiều giấy khen, bằng khen.

Tự hào với truyền thống của Lữ đoàn Anh hùng, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn luôn trân trọng những hy sinh oanh liệt, sự cống hiến cao cả của các thế hệ cha anh, dù trong hoàn cảnh nào luôn đoàn kết, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Đảng bộ TSVM tiêu biểu, Lữ đoàn VMTD “mẫu mực, tiêu biểu”, tô thắm thêm truyền thống 16 chữ vàng “Kiên cường dũng cảm, đoàn kết, hiệp đồng, tự lực, tự cường, đã đánh là thắng”.

 

 

VINH DỰ, TỰ HÀO

TRUYỀN THỐNG 50 NĂM - BINH ĐOÀN CỬU LONG ANH HÙNG

 

                                                                Phòng Tuyên huấn, Cục Chính trị

Cách đây 50 năm, ngày 20 tháng 7 năm 1974, tại khu căn cứ Suối Bà Chiêm, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, nay là xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, đồng chí Phạm Hùng Bí thư Trung ương Cục miền Nam thay mặt Trung ương Đảng công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long). Sự ra đời của Quân đoàn 4 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đánh dấu bước trưởng thành, lớn mạnh về tổ chức lực lượng, trình độ năng lực tổ chức chỉ huy cả về chất và lượng, tạo nên một quả đấm chủ lực mạnh trên địa bàn chiến lược ngay sát cửa ngõ Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch. Quân và dân ta có thêm lực lượng mới, tăng cường thế và lực, sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân để mở ra những chiến dịch có quy mô lớn, có ý nghĩa chiến lược, kết thúc chiến tranh.

Đội hình chiến đấu của Quân đoàn được hợp thành bằng những đơn vị chủ lực đầu tiên có bề dày lịch sử, truyền thống rất vẻ vang của Quân đội ta từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Các đơn vị tiền thân trong đội hình Quân đoàn bao gồm: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Sư đoàn BB9, Sư đoàn BB7, Lữ đoàn Pháo binh 24 (nay là Lữ đoàn Pháo binh 434); Lữ đoàn Phòng không 71; Lữ đoàn Công binh 25 (nay là Lữ đoàn Công binh 550), Trung đoàn Đặc công 429, Trung đoàn Thông tin 69. Sau đó bổ sung Sư đoàn BB341 từ miền Bắc vào, Lữ đoàn Tăng Thiết giáp 22 được thành lập ngày 05/8/1976. Ngày 03 tháng 9 năm 1979 Sư đoàn BB339, Quân khu 9 về đội hình Quân đoàn; giữa tháng 11 năm 1980 Sư đoàn BB341 về đội hình Quân khu 4, đến năm 1983 Sư đoàn BB339 về đội hình Quân khu 9. Ngày 18/12/1988 Sư đoàn BB309, Quân khu 7 về đội hình Quân đoàn. Như vậy, ngay từ khi mới thành lập, Quân đoàn 4 đã có cơ cấu tổ chức của một Binh đoàn chủ lực, có khả năng cơ động, độc lập tác chiến trong một chiến dịch, tác chiến tập trung, hiệp đồng Quân - Binh chủng trên một hướng chiến lược. Các đơn vị thuộc Quân đoàn đã có bề dày lịch sử, truyền thống trong chiến đấu, xây dựng và công tác, đó là cơ sở vững chắc để Quân đoàn nhanh chóng xây dựng và trưởng thành, hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó.

Nhận thức sâu sắc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Quân đoàn, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng uỷ Quân đoàn đã xác định: “Phải khẩn trương xây dựng Quân đoàn chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao, sức đột kích mạnh, sức cơ động lớn, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao”. Đây là cơ sở để ngay sau 5 tháng được thành lập, Quân đoàn đã ra quân mở đầu thắng lợi bằng chiến thắng Đường 14 - Phước Long (từ ngày 06/12/1974 đến 06/01/1975), tỉnh đầu tiên của miền Nam được hoàn toàn giải phóng, chiến công đó làm nức lòng quân và dân cả nước. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chính trị quan trọng “đòn trinh sát chiến lược” giúp cho Bộ Chính trị đưa ra quyết định chính xác quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975; nguyên cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhật xét: “Chiến thắng này đã mở ra tiền đề cho cách mạng miền Nam, thần tốc tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Chiến thắng Phước Long đã thể hiện trình độ tác chiến chiến dịch, hiệp đồng quân - binh chủng, trình độ tổ chức chỉ huy, trình độ kỹ - chiến thuật của cán bộ, chiến sỹ và những cách đánh sáng tạo, linh hoạt trong một đội hình chiến dịch lớn.

Chiến công nối tiếp chiến công, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, Quân đoàn đảm nhiệm 3 mũi trên 2 hướng chiến dịch quan trọng: Là Hướng Đông và Tây Nam Sài Gòn. Trên hướng Đông, Quân đoàn lần lượt đánh chiếm Xuân Lộc, Trảng Bom, Hố Nai, Tam Hiệp, Biên Hòa. Đột kích vào nội đô tiêu diệt địch, đánh chiếm Gò Vấp, Quận 1, Quận 3, Quận 10… Đặc biệt là trong tiến công Xuân Lộc, nơi được Mỹ và chính quyền Sài Gòn coi là “Cánh cửa thép” bất khả chiến bại bảo vệ Đông Bắc Sài Gòn; bằng sức mạnh “Quả đấm thép”, Quân đoàn và lực lượng vũ trang Quân khu 7, với cách đánh sáng tạo và chịu nhiều gian khổ, hy sinh “Cánh cửa thép” Xuân Lộc bị đập tan, tạo điều kiện thuận lợi cho 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định... Trên hướng Tây Nam, Sư đoàn 9 là lực lượng chủ yếu trong đội hình Đoàn 232 đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, Long An, Bến Lức; các địa bàn thuộc Quận 8, 10, 5 tiến vào đánh chiếm Biệt khu Thủ Đô, bắt sống tướng Lâm Văn Phát - Tư lệnh Biệt khu.

Đến trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, đội hình Quân đoàn có mặt tại Sài Gòn, hội ngộ cùng các đơn vị bạn trong giờ phút thiêng liêng của ngày vui đại thắng.

Hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, Quân đoàn được giao nhiệm vụ quân quản ở 9 quận và 2 huyện thuộc Thành phố Sài Gòn - Gia Định. Trước yêu cầu nhiệm vụ quân quản rất chặt chẽ và nghiêm khắc, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 luôn đoàn kết một lòng, quyết tâm cao; tác phong luôn chỉnh tề, nghiêm túc, trách nhiệm cao, nhất là trong làm nhiệm vụ canh gác, tuần tra, bảo vệ trật tự trị an; giúp đỡ nhân dân ổn định cuộc sống. Sau 2 năm kiên trì thực hiện nhiệm vụ, cán bộ chiến sĩ đã nêu cao hình ảnh, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân quản, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân Sài Gòn - Gia Định; được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi: Các đồng chí “Vào thành vững như thành”.

Đất nước vừa được độc lập, thống nhất chưa bao lâu, chiến tranh ở biên giới  Tây Nam xảy ra. Cán bộ, chiến sỹ Quân đoàn 4 lại tiếp tục hành quân chiến đấu bảo vệ đồng bào và từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc trên dải biên giới từ Tây Ninh đến Kiên Giang. Hơn một năm chiến đấu liên tục, bằng các đòn phản công, tấn công thần tốc, Quân đoàn 4 đã cùng các đơn vị bạn và Nhân dân ta đã tiêu diệt và đánh bại cuộc chiến xâm lấn của địch, giúp đỡ hàng vạn nhân dân Campuchia lánh nạn, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Tháng 01 năm 1979, theo đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với tinh thần quốc tế trong sáng, Quân đoàn 4 đã tình nguyện thực hiện nghĩa vụ quốc tế; phối hợp cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng tấn công đập tan tuyến phòng thủ của địch; đánh chiếm các mục tiêu, giúp Bạn giải phóng thủ đô Phnôm Pênh, làm cơ sở giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Sau đó, Quân đoàn tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, tới cuối năm 1989 đơn vị cuối cùng của Quân đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, rút quân về nước. Từ đây, Quân đoàn tập trung củng cố thế đứng chân ở miền Đông Nam bộ, nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, xây dựng chính quy và quản lý tốt kỷ luật, xây dựng Quân đoàn theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bước vào giai đoạn cách mạng mới, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong suốt chặng đường lịch sử 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Quân đoàn 4 – Binh đoàn Cửu Long anh hùng đã sát cánh bên nhau, đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Những chiến công của Quân đoàn luôn gắn liền với những công lao và đóng góp to lớn của quân và dân Nam Bộ, của toàn dân tộc và sự cống hiến của hàng triệu cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân, trong đó có hơn 44 ngàn cán bộ, chiến sĩ của Quân đoàn đã anh dũng chiến đấu hy sinh thân mình, hàng chục ngàn thương binh đã để lại một phần xương thịt cho Tổ quốc, góp phần tô thắm trang sử vẻ vang của Quân đoàn 4 anh hùng. Đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống của các bậc cha anh; là quá trình liên tục xây dựng, chiến đấu, công tác bằng trí tuệ, sức lực, mồ hôi, xương máu của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn, để xây đắp nên truyền thống quý báu “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng”.

Ghi nhận thành tích và tôn vinh công lao của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cũng như ghi nhận những thành tích trong xây dựng Quân đoàn thời bình. Quân đoàn vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, được tặng thưởng 04 Huân chương Hồ Chí Minh, 03 Huân chương Quân công hạng Nhất, được Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăngco (Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Campuchia); 01 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì; 01 Huân chương Chiến công hạng Nhì (trong phòng chống dịch bệnh Covid-19).

Trong đội hình Quân đoàn có 83 tập thể, 51 cá nhân đã được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân”. Trong đó f9, f7, f341 (đã chuyển về Quân khu 4), e2/f9, e31/f309 hai lần được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Trong Quân đoàn còn có hàng ngàn tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương, Huy chương các loại và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Vinh dự, tự hào với truyền thống vẻ vang qua 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; sự chống phá ngày càng tinh vi, thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn luôn phát huy những thành tích đạt được; quán triệt sâu sắc đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, Kế hoạch của Bộ Quốc phòng về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tiếp tục thực hiện có chất lượng và hiệu quả phương châm, tư tưởng chỉ đạo “Một tập trung, hai thường xuyên, ba khâu đột phá, bốn cùng bộ đội và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng 4 tốt”, trọng tâm đột phá vào xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật và đảm bảo an toàn. Xây dựng Đảng bộ Quân đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; TSVM tiêu biểu, Quân đoàn VMTD “Mẫu mực, tiêu biểu”, tinh, gọn, mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, khả năng SSCĐ và sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng“ của Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long anh hùng./.

 LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA


Ngày 15/5/1962

Quyết lòng gìn giữ giang san

Đồng bào Nam Việt muôn vàn văn minh”.[1]

Những câu thơ trên là phần kết trong bài viết có tiêu đề “Ai dã man? Ai văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân dân, số 2973, ngày 15 tháng 5 năm 1962. Bài báo đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn và dã tâm của đế quốc Mỹ xâm lược bắt tay với bọn ác ôn Ngô Đình Diệm để giết hại, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam; đồng thời, Bác ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, nhưng rất khoan hồng, nhân đạo, nhân văn trong đối xử với từ hàng binh địch của quân và dân miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác, quân và dân ta quyết tâm chiến đấu giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời luôn đối xử nhân đạo với tù hàng binh, giáo dục họ, phóng thích và trả về đoàn tụ cùng gia đình, kể cả binh lính Mỹ, cũng như lính chư hầu các nước … Thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược tiếp tục khẳng định truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đó chính là sức mạnh làm nên những thắng lợi vĩ đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thực hiện lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, quyết chiến, quyết thắng trước mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc. Đối với tù binh, hàng binh và những người lầm đường, lạc bước quay trở lại với nhân dân, với cách mạng thì luôn được cán bộ, chiến sĩ quân đội đối xử với lòng nhân ái, vị tha, khoan hồng theo đúng chính sách của Đảng, Nhà nước… góp phần giảm tổn thất trong các cuộc chiến tranh, làm dịu đi mối hận thù giữa hai dân tộc, hai quốc gia đối địch trong chiến tranh, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân ái của dân tộc Việt Nam, phẩm chất nhân văn, cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 16/5/1959

“Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nẩy nở rất dễ”[2].

Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài nói tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an, ngày 16 tháng 5 năm 1959. Bác chỉ rõ: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù”. Bác căn dặn ngành Công an muốn làm tròn nhiệm vụ, phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống thói so bì đãi ngộ, chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể... Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, theo Hồ Chí Minh là gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ hơn cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù ngoại xâm, bởi nó ẩn sâu trong tư tưởng, suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân, không dễ gì nhận thấy và cũng không dễ gì đánh đổ. Việc chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính, trong đó có những cán bộ ngành Công an.

Lời dạy của Bác có giá trị bền vững, có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch bộ máy Nhà nước ta hiện nay. Học tập và làm theo Bác, chống chủ nghĩa cá nhân, các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là chi bộ cần coi trọng khâu giáo dục, nâng cao nhận thức, tăng cường quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên, xây dựng động cơ phấn đấu đúng đắn của quần chúng, để họ hiểu vào Đảng không phải là để thăng quan tiến chức mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mỗi người phải tự cảnh giác với chính mình, vượt qua được những tiêu cực, cám dỗ của lợi ích vật chất và những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; cảnh giác trước sự chống phá, mua chuộc, dụ dỗ của kẻ thù.

Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng luôn tự hào về phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phát huy vai trò tiền phòng, gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người chính ủy, chính trị viên, chỉ huy cơ quan, đơn vị gương mẫu học tập, rèn luyện chống suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tiêu cực xảy ra; ra sức xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr 397.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 12, tr. 222.