Wednesday, August 28, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Ngày 29 tháng 8:“Nhờ tinh thần anh dũng và lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam, Cách mạng tháng Tám đã thắng lợi”.

Là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8 năm 1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một cuộc đổi đời chưa từng có với mỗi người Việt Nam; đã lật nhào chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật suốt 5 năm. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh: Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hi sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Sunday, August 25, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

     Ngày 26 tháng 8:“Quân và dân ta cố gắng thi đua giết giặc lập công, thi đua tăng gia và tiết kiệm, thì tình hình giặc sẽ hơn nữa và thắng lợi nhất định về ta”.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “12 vạn 5 nghìn binh sĩ Pháp chết và bị thương” đăng trên Báo Cứu quốc, số 2151, ngày 26 tháng 8 năm 1952.

Đây là giai đoạn tình hình nước Pháp trở nên rối ren với những diễn biến bất lợi trên chiến trường Đông Dương. Ở Việt Nam, quân Pháp chủ trương thực hiện chiến lược phòng ngự, ráo riết bình định các vùng tạm chiếm; nhưng liên tiếp gặp phải sự kháng cực mạnh mẽ của quân và dân ta dẫn đến thất bại nặng nề. Trung ương Đảng chủ trương: “Đánh dài ngày, đánh liên tục, tiến từng bước chắc, đồng thời sẵn sàng nắm thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh chóng. Về chiến thuật là vây điểm, diệt viện; diệt viện, phá điểm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời viết bài thông tin trên báo chí để quốc dân đồng bào biết về những tổn thất nặng nề của thực dân Pháp trên các chiến trường và chính sự rối ren trong nội bộ nước Pháp. Đồng thời, Người căn dặn, động viên, cổ vũ quân và dân cả nước nỗ lực thi đua để nhanh chóng giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc..

Quán triệt và thực hiện những chỉ huấn của Người, phong trào thi đua yêu nước trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hưởng ứng tham gia với các phong trào thi đua: “Hũ gạo kháng chiến”, “Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công, đồng bào ở hậu phương thi đua tăng gia sản xuất”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền tuyến”, “người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”… đã khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của dân tộc, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, góp phần đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc, lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Học tập và làm theo lời Bác dạy trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, phong trào thi đua Quyết thắng đã sớm hình thành và được duy trì thường xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, sôi động, có chiều sâu và sức lan tỏa rộng; gắn kết chặt chẽ giữa thi đua thường xuyên với các đợt thi đua cao điểm, đột kích, các phong trào, các cuộc vận động của các cấp, các ngành, tạo thành phong trào hành động cách mạng sôi nổi, rộng khắp trong toàn quân. Phong trào thi đua Quyết thắng đã khơi dậy ý thức tự lực, tự cường, sức sáng tạo, động viên tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, phấn đấu bền bỉ, liên tục trong từng tập thể, cá nhân góp phần rèn luyện, xây dựng bản lĩnh, nhân cách người quân nhân cách mạng, phẩm chất cao đẹp“Bộ đội Cụ Hồ”, nâng cao chất lượng chính trị, sức mạnh tổng hợp, lập nên những chiến công oanh liệt trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Thursday, August 22, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Ngày 23 tháng 8:“Nghĩa vụ một người dân là phải yêu Tổ quốc”.

Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong bài “Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết”, Người viết tại Quảng Châu, Trung Quốc, đăng trên Báo Thanh niên, số 9, ngày 23 tháng 8 năm 1925. Đây là giai đoạn phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đang diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trên thế giới cũng như ở Đông Dương.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường đầy gian lao thử thách, nhưng vẫn trường tồn và phát triển bởi đã rèn đúc nên bản lĩnh vững vàng, mang đậm tính cách và khí phách của dân tộc, hình thành và hun đúc nên truyền thống yêu nước Việt Nam. Truyền thống ấy đã thấm sâu vào trong mỗi người dân, tạo nên tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của các thế hệ người Việt và sức mạnh to lớn của dân tộc để chiến đấu, chiến thắng thiên tai, địch họa. Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh đã tập hợp, quy tụ người Việt Nam không phân biệt đàn ông, đàn bà, già, trẻ, đảng phái, tôn giáo, dân tộc… đoàn kết, đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn mài sắc lý tưởng chiến đấu, yêu nước, yêu chế độ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân; đề cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và công tác; đoàn kết nội bộ tốt, tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, gắn bó máu thịt với nhân dân; tính kỷ luật tự giác, nghiêm minh, tinh thần quốc tế cao cả... Phẩm chất, truyền thống tốt đẹp ấy phản ánh bản chất cách mạng và là sức mạnh nội sinh được tích hợp ở một trình độ cao trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Wednesday, August 21, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

     Ngày 22 tháng 8:“Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Phải theo đúng kỷ luật của Đảng” đăng trên Báo Nhân dân số 217, từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 8 năm 1954; bút danh “C.B”.

Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, với mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Cũng từ đó, Đảng ta vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, nên tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc của Đảng thống nhất với nhau, không thể tách rời.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai lợi ích của Đảng ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế, thể hiện sâu sắc giá trị lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng Đảng; vừa thể hiện một cách đúng đắn và nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ, đạo đức và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, đây còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng ta và mỗi cán bộ, đảng viên hành động đúng tôn chỉ, mục đích của Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và của dân tộc lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

          Thấm nhuần lời Bác dạy, cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... Càng trong khó khăn, gian khổ bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng được khẳng định, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Tuesday, August 20, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Ngày 21 tháng 8:“Lo cứu nước tức là lo cứu mình”.

Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong bài “Dân cày”, đăng trên Báo Việt Nam độc lập, số 103, ngày 21 tháng 8 năm 1941.

          Để tập hợp toàn dân tộc đấu tranh giành chính quyền, giành độc lập, tự do cho đất nước, giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị, áp bức của thực dân Pháp xâm lược và chế độ phong kiến, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết bài:“Lo cứu nước tức là lo cứu mình” đăng trên báo Dân cày. Người đã chỉ rõ,  trong đời sống của dân ta đang bị áp bức, bóc lột dưới chế độ thực dân, phong kiến tàn bạo, hà khắc. Do vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải cùng nhau đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước, giải phóng dân tộc và đó cũng chính là cách thức tốt nhất để tự cứu mình trước ách đô hộ, cai trị của đế quốc, thực dân, phong kiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thức tỉnh, giác ngộ, động viên và tập hợp lực lượng của cả dân tộc đứng lên chống chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do cho dân tộc và cứu chính bản thân mình, gia đình mình.

Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn dân anh dũng chiến đấu, lập nên nhiều chiến công oanh liệt: Đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đưa vị thế nước ta ngày càng nổi bật trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường… đặt ra cho Quân đội ta những yêu cầu mới và đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn, để tập trung xây dựng quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; quyết tâm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm chiếm chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển, đảo, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phi chính trị hóa quân đội, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược (kể cả chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao) nếu như chúng liều lĩnh gây ra, đó chính là đã thực hiện trọn vẹn lời Bác Hồ dạy: “Lo cứu nước tức là lo cứu mình”.

Monday, August 19, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Ngày 20 tháng 8:“Phải quyết chiến quyết thắng, những chớ chủ quan khinh địch…”.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Việc đình chiến ở Triều Tiên” đăng trên Báo Nhân dân, số 130, từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 8 năm 1953; bút danh C.B.

Chiến tranh Triều Tiên kéo dài từ giữa năm 1950 đến giữa năm 1953, chiến cuộc tạm ngưng khi hai miền đạt được một thỏa hiệp ngừng bắn vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Song, thương vong lớn tất cả các bên tham chiến; trong đó có quân đội Mỹ. Việc đình chiến ở Triều Tiên góp phần cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới; trong đó, tinh thần của quân và dân ta hăng hái lên cao, có lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn quyết liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời nhắc nhở quân và dân ta luôn giữ vững tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không được chủ quan khinh địch.

Thực hiện lời Bác dạy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, vượt mọi gian khổ, hiểm nguy, chiến đấu kiên cường dũng cảm với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được Đảng, Bác Hồ trực tiếp tổ chức, giáo dục và rèn luyện; kế thừa truyền thống tốt đẹp, hào hùng của dân tộc và tinh hoa của nhân loại về quân sự, chính trị, đặc biệt là tinh thần quyết chiến, quyết thắng - một nhân tố đặc trưng tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội ta. Ý chí quyết chiến, quyết thắng được thể hiện sâu sắc và triệt để trong các giai đoạn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta, đã tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cán bộ, chiến sĩ quân đội tiếp tục giữ vững và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ đối tượng, đối tác, phối hợp chặt chẽ các hoạt động quốc phòng với an ninh và đối ngoại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…

Sunday, August 18, 2024

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Ngày 19 tháng 8:“Muốn ăn quả tốt, phải trồng cây to”.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Ngày Độc lập”, Bác viết ngày 19 tháng 8 năm 1950.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt nam Dân chủ Công hòa - nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, dân chủ, Đảng ta từ một Đảng bất hợp pháp trở thành một Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới. Song, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là trước dã tâm quay lại cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút về căn cứ địa Việt Bắc để bảo toàn và phát triển lực lượng, chỉ đạo cả nước trường kỳ kháng chiến và quyết định mở chiến dịch biên giới Thu Đông 1950 (Chiến dịch Lê Hồng Phòng 2) nhằm phá thế bị cô lập ở căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt - Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ; mở rộng căn cứ địa và tiêu diệt một phần sinh lực quân đồn trú của Pháp, thử nghiệm các chiến thuật cho quân đội ta, khi đó vẫn chủ yếu thực hiện cách đánh du kích, còn thiếu kinh nghiệm tác chiến quy mô lớn.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo trường kỳ kháng chiến của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng, kề vai sát cánh, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh, thắng không kiêu, bại không nản, tiến hành cuộc kháng chiến ba nghìn ngày, với tinh thần: “Dù bom đạn xương tan thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh…” đã làm nên một Điện Biên Phủ lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãng đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã trở thành động lực to lớn cổ vũ toàn quân đoàn kết, phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, vươn lên xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc. Đảng bộ Quân đội và toàn quân luôn mẫu mực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ đoàn kết thống nhất cao, có chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân không ngừng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bảo vệ vững chắc thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước; luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Sunday, August 11, 2024

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG 45 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH, QUYẾT TÂM XÂY DỰNG CỤC KỸ THUẬT VMTD “MẪU MỰC, TIÊU BIỂU”

 

Cục Kỹ thuật Quân đoàn 4 được thành lập vào ngày 17/4/1979 để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước độc lập, thống nhất đi lên CNXH, nhân dân cả nước đều phấn khởi, vui mừng hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Tuy nhiên, tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia ngày càng diễn biến phức tạp, tập đoàn phản động Pôn pốt - Iêng xa ri dưới sự giật dây của các thế lực bên ngoài đã liên tiếp xua quân thâm nhập lãnh thổ, tàn sát dã man, gây bao tội ác với đồng bào ta dọc tuyến biên giới phía Nam của Tổ quốc.

Đứng trước nguy cơ đó, tháng 6 năm 1978, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá 4) ra Nghị quyết Trung ương 4 xác định rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm của cách mạng Việt Nam và phương pháp giải quyết dứt điểm cuộc chiến tranh biên giới phía Nam, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của Tổ quốc, trong đó có việc thành lập mới các đơn vị chủ lực để trực tiếp tham gia chiến đấu. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng và Quân đội, ngày 24 tháng 02 năm 1979, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Cục Kỹ thuật ở cấp Quân chủng, Quân khu, Quân đoàn, Binh chủng; Phòng kỹ thuật ở cấp Sư đoàn, Lữ đoàn; Ban Kỹ thuật ở cấp Trung đoàn và tương đương. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 17 tháng 4 năm 1979, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4 ký Quyết định số 45/QĐ-BTL của Bộ Tư lệnh về việc thành lập Cục Kỹ thuật Quân đoàn 4 trên cơ sở hai phòng chuyên ngành Quân khí, Xe-Máy, các đơn vị sửa chữa, các đơn vị kho kỹ thuật của Cục Hậu cần Quân đoàn bàn giao và kiện toàn Đảng ủy, Ban Chỉ huy Cục và các bộ phận Chính trị, Tài chính..., có nhiệm vụ bảo đảm công tác kỹ thuật cho Quân đoàn thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ thường xuyên khác. Theo đó, ngày 17 tháng 4 hằng năm là ngày truyền thống của Cục Kỹ thuật, Quân đoàn 4.

Trong suốt 10 năm bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu và làm nhiệm vụ Quốc tế giúp bạn Campuchia, trong gian khổ ác liệt đã có nhiều cán bộ, nhân viên là kỹ sư, thợ, lái xe của Cục đã anh dũng hy sinh. Nhiều chiến dịch phải bảo đảm kỹ thuật tập trung, quy mô lớn, sử dụng nhiều phương tiện và lực lượng kỹ thuật dài ngày nhưng đã được tổ chức chặt chẽ và chu đáo, như chiến dịch Đường 16, chiến dịch mùa khô năm 79, chiến dịch 1980 - 1981, chiến dịch 1981 - 1982, chiến dịch 1983 - 1984, chiến dịch 1984 - 1985, chiến dịch 1987 - 1988 từ thành phố Phnôm Pênh, đến các đơn vị tác chiến ở địa bàn các tỉnh Kan đan, Côngpông Spư, Công pông Chnăng, Pu sat, Siêm diệp... đặc biệt là bảo đảm cho các đơn vị rút quân về nước năm 1983, 1989. Bảo đảm cho Sư đoàn 7 trở lại Campuchia năm 1984 - 1985, được Quân đoàn đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trong 10 năm thực hiện công tác kỹ thuật ở Campuchia, Cục Kỹ thuật đã tiếp nhận: 5.752 súng BB; 29 khẩu pháo các loại; 70 xe ô tô; 67 xe T-TG; 3661 tấn đạn dược. Thu hồi: 1.338,5 tấn đạn dược; 25.958 khẩu súng BB; 164 khẩu pháo; 154 tấn vật tư, phụ tùng; 505 xe ô tô. Bảo đảm cấp phát: 5.799,1 tấn đạn dược; 21.604 khẩu súng BB; 292 khẩu pháo; 13 xe ô tô. Sửa chữa nhẹ và vừa: 7.877 khẩu súng BB; 312 lần/pháo; 332 lần xe ô tô.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang ở Campuchia, Quân đoàn rút quân về nước, bắt đầu thực hiện nhiệm vụ huấn luyện nâng cao chất lượng tổng hợp và sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ công tác kỹ thuật trong giai đoạn này gặp nhiều khó khăn. Đảng ủy, chỉ huy Cục Kỹ thuật đã thường xuyên quán triệt, tham mưu cho Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân đoàn xây dựng, triển khai một số chương trình, kế hoạch thực hiện các nội dung mang tính trọng tâm, trọng điểm, thống nhất, chính qui, hiệu quả lâu dài, phát huy mọi nguồn lực của toàn đơn vị trong tổ chức thực hiện. Giai đoạn từ 2009 đến nay Quân đoàn 4 được Bộ Quốc phòng quan tâm, đầu tư bảo dưỡng, sửa chữa đồng bộ xe ô tô, xe TTG và vũ khí bộ binh Sư đoàn BB9, Lữ đoàn PK71, Lữ T-TG22 năm 2009; Lữ đoàn PB434 năm 2011 và Tiểu đoàn 6 vận tải năm 2013, từ năm 2014 đến nay đồng bộ và duy trì hệ số kỹ thuật đồng bộ cho 100% số VKTBKT của các đơn vị còn lại, các đợt nghiệm thu cấp cơ sở, cấp Bộ được Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao; đồng thời cho mở mới dự án cải tạo nâng cấp kho vũ khí, đạn chiến dịch K174, xây mới kho đạn vòm Sư đoàn BB9, BB309, Lữ đoàn PB434, Kho K174; Kho thuốc nổ Lữ đoàn CB550; xây nhà huấn luyện, Trạm bảo dưỡng sửa chữa tổng hợp của Sư đoàn BB9, BB309, BB7, Lữ đoàn 434, Tiểu đoàn SCTH79; lắp đặt hệ thống camera bảo vệ khu kỹ thuật, kho đạn của fBB9, fBB309, Lữ đoàn Pk71, Lữ đoàn T-TG22, Kho K174, dSCTH79/CKT; đầu tư trang thiết bị công nghệ mới cho các trạm sửa chữa cấp chiến dịch, chiến thuật... ngoài ra ngành Kỹ thuật Quân đoàn còn được quan tâm đầu tư bảo đảm kỹ thuật từ các dự án, đề án như: Đề án 324-KT về bảo đảm ngân sách kỹ thuật giai đoạn 2018 - 2030 cho vũ khí trang bị kỹ thuật mua sắm từ năm 2001 đến nay, đề án KA-10 về điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hệ thống kho vũ khí trang bị kỹ thuật toàn quân giai đoạn 2018 - 2025 và những năm tiếp theo, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án cải tiến, tăng hạn sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật theo kế hoạch theo Nghị quyết 382/NQ-ĐUQSTW ngày 29/11/2007 (nay là Nghị quyết 1656 của Quân ủy trung ương về lãnh đạo công tác kỹ thuật đến năm 2030 và những năm tiếp theo); đã góp phần không nhỏ đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của Quân đoàn.

Công tác quản lý, thu gom, dồn dịch, xử lý vũ khí trang bị, đạn dược được chỉ đạo chặt chẽ, đạt kết quả tốt, an toàn tuyệt đối. Công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật được triển khai thực hiện có hiệu quả, khai thác vũ khí trang bị hợp lý, luôn duy trì nghiêm các chế độ, quy định, từng bước nâng cao chất lượng bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, niêm cất, nên chất lượng và đồng bộ của VKTBKT luôn được bảo đảm tốt, độ tin cậy cao góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Quân đoàn.

Với chức năng là cơ quan thường trực CVĐ-50, Cục Kỹ thuật luôn làm tốt chức năng tham mưu cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nội dung, mục tiêu Cuộc vận động 50 “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, công tác an toàn, bảo hộ lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp trong toàn Quân đoàn. Chỉ đạo thực hiện tốt các kế hoạch hội thi, hội thao của ngành Kỹ thuật trong Quân đoàn, qua hội thi đã huy động thêm được hàng trăm triệu đồng và hàng vạn ngày công của bộ đội góp phần nâng cao chất lượng duy trì hệ số kỹ thuật vũ khí trang bị. Đặc biệt, trong khai thác sử dụng xe ô tô quân sự trong 20 năm trở lại đây, mặc dù trên địa bàn tình hình giao thông phức tạp nhưng các phương tiện xe quân sự của Quân đoàn luôn bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới vào công tác chuyên môn được quan tâm và triển khai sâu rộng, nhất là trong lĩnh vực quản lý, bảo đảm kỹ thuật; giải quyết những vấn đề thực tiễn, cấp thiết trong công tác kỹ thuật ở đơn vị, góp phần hạn chế hư hỏng, xuống cấp của VKTBKT, nâng cao hệ số kỹ thuật.

Với thành tích đạt được trong các chặng đường đã qua, Cục Kỹ thuật Quân đoàn 4 đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 01 Huân chương Quân công hạng 3 (năm 1983), 01 Huân chương Chiến công hạng nhất (Năm 1998), Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba (năm 2014), hạng nhì (năm 2019), Cờ Thi đua của Thủ tướng Chính phủ (năm 2017), Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về Cuộc vận động 50, 04 cờ thưởng tổ chức Đảng Vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền của Đảng ủy quân sự Trung ương (1996 - 2000, 2001 - 2005, 2005 - 2010, 2011 - 2016) và nhiều Cờ Thi đua, Bằng khen, Giấy khen của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật, của Quân đoàn và các Cục chuyên ngành. Trong đội hình Cục, nhiều tập thể Phòng, Ban, đơn vị được tặng Danh hiệu đơn vị quyết thắng, Bằng khen của Bộ Quốc phòng; nhiều cá nhân được tặng Danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở, Danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quân và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ Cục Kỹ thuật phải tiếp tục quán triệt nhận thức đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ. Nâng cao trách nhiệm, tiếp tục giữ gìn, phát huy và tô thắm thêm truyền thống Quân đoàn 4 anh hùng, đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm xây dựng Đảng bộ TSVM tiêu biểu, Cục Kỹ thuật VMTD “mẫu mực, tiêu biểu”, xứng đáng với truyền thống vẻ vang, sự hy sinh và công lao đóng góp mà các thế hệ đi trước đã đổ biết bao mồ hôi xương máu xây dựng nên; mãi mãi là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xứng đáng với truyền thống “Chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cườngcủa ngành Kỹ thuật, hăng hái thi đua lập nhiều thành tích mới hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đoàn, 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

Wednesday, August 7, 2024

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG TÌNH ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG ĐỘI CHO HẠ SĨ QUAN – BINH SĨ TRONG QUÂN ĐOÀN HIỆN NAY

Tình đồng chí, đồng đội là tình cảm đặc biệt, gắn bó những người tuy có hoàn cảnh khác nhau, nhưng có cùng mục tiêu, lý tưởng giai cấp, đến bên nhau bằng tình thương, sự sẻ chia để phấn đấu rèn luyện, chiến đấu hy sinh vì lý tưởng chung. Tình đồng chí, đồng đội là một thuộc tính bản chất, là cơ sở để tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Là sợi dây gắn kết giữa các quân nhân để họ phát huy tài năng, trí tuệ và phẩm chất đạo đức của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội có vai trò rất quan trọng đối với đội ngũ Hạ sĩ quan – Binh sĩ (HSQ-BS) trong Quân đội nói chung và đối với Quân đoàn 4 nói riêng nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhận thức rõ điều đó, trong thời gian qua, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn và cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đã có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, tăng cường bồi dưỡng, phát huy tình đồng chí, đồng đội cho các đối tượng trong quân đoàn nói chung và HSQ-BS nói riêng. Vì vậy, tình đồng chí, đồng đội của HSQ-BS ngày càng được phát huy, góp phần nâng cao chất lượng công tác, sức mạnh tổng hợp của Quân đoàn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Tuy nhiên, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, lối sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng dẫn đến một số HSQ-BS có nhận thức lệch lạc về tình đồng chí, đồng đội, có hành vi tiêu cực, thái độ thờ ơ, vô cảm với đồng chí, đồng đội, ít nhiều làm phai nhạt tình cảm thiêng liêng cao quý đó, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị và Quân đoàn. Để bồi dưỡng, phát huy tình đồng chí, đồng đội cho HSQ-BS trong Quân đoàn hiện nay, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về tình đồng chí, đồng đội cho Hạ sĩ quan – Binh sĩ

Trước hết, cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp trong Quân đoàn cần lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền về sự cần thiết phải bồi dưỡng cho HSQ-BS về tình đồng chí, đồng đội, giá trị cao đẹp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Từ đó, đề cao ý thức trách nhiệm của các cấp ủy và cán bộ, đảng viên trong phấn đấu, rèn luyện theo giá trị phẩm chẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng…, Khơi dậy niềm vinh dự, trách nhiệm, tự hào, xây dựng tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, sinh hoạt tập thể, tạo môi trường thuận lợi để HSQ-BS có điều kiện giao lưu, học hỏi lẫn nhau; đồng thời, tăng cường tình đồng chí, đồng đội trong đơn vị. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp trong xây dựng tình đồng chí, đồng đội ở từng cơ quan, đơn vị; nói đi đôi với làm, thương yêu, gần gũi HSQ-BS, công tâm, khách quan trong xem xét xử lý các công việc, giải quyết hài hòa các mối quan hệ; quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của HSQ-BS. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện, tư tưởng sai trái, lệch lạc làm ảnh hưởng đến tình đồng chí, đồng đội, giá trị phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

Hai là, tổ chức tốt các hoạt động ở đơn vị cơ sở nhằm tạo sự đoàn kết, thống nhất, gắn bó trong Hạ sĩ quan – Binh sĩ

Hoạt động thực tiễn có ý nghĩa rất lớn trong bồi dưỡng, phát huy tình đồng chí, đồng đội trong đơn vị. Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở đâu, khi nào đơn vị tổ chức tốt các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT); hoạt động quân sự; hoạt động bồi dưỡng kỹ năng sống, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí, giao lưu kết nghĩa…thì ở đó có sự đoàn kết, thống nhất cao; tình đồng chí, đồng đội được gắn bó, phát huy cao độ.

Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và các tổ chưc, lực lượng cần quan tâm tổ chức tốt các hoạt động thực tiễn ở đơn vị. Qúa trình tổ chức phải bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ, nhưng phải linh hoạt, sáng tạo, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của HSQ-BS, tránh cứng nhắc, cẳng cẳng không cần thiết gây tâm lý hoang mang, lo sợ, tiêu cực. Chú ý bồi dưỡng, rèn luyện cho HSQ-BS nêu cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong huấn luyện, diễn tập và các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đột xuất. Bởi vì thông qua những điều kiện hoàn cảnh đó để HSQ-BS kiểm nghiệm, nhận rõ giá trị cao đẹp, truyền thống của tình đồng chí, đồng đội trong từng đơn vị, từ đó nêu cao tinh thần, trách nhiệm để giữ gìn và phát huy.

Ba là, phát huy tính tích cực tự tu dưỡng, rèn luyện của từng Hạ sĩ quan – Binh sĩ về tình đồng chí, đồng đội

Phẩm chất, nhân cách được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó tự học, tự tu dưỡng giữ vai trò quyết định. Thực tiễn đã chứng minh, dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu, nhưng nếu từng HSQ-BS thiếu tự giác, không tích cực tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành thì hiệu quả bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội không cao. Do đó, mỗi HSQ-BS cần xây dựng chương trình, kế hoạch tự phấn đấu, tu dưỡng theo phẩm chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” một cách cụ thể, thiết thực, trong đó có tình đồng chí, đồng đội. Đồng thời, thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm thiết thực hằng ngày gắn với thực hiện Cuộc vận động “phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ dội Cụ Hồ”. Bên cạnh đó, từng HSQ-BS cần xây dựng cho mình đức tính cần cù, nhẫn nại, kiên trì, bền bỉ, lấy tu dưỡng phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng làm gốc, làm nền tảng. Mặt khác, tích cực tham gia các hoạt động văn hóa quần chúng, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Để phát huy tính tích cực, chủ động của HSQ-BS trong tự rèn luyện, tự tu dưỡng, phát triển tình đồng chí, đồng đội, các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ trì các cấp ở Quân đoàn cần tăng cường giáo dục, xây dựng cho HSQ-BS động cơ, mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn, yên tâm gắn bó với nghề nghiệp quân sự, tích cực phấn đấu theo các tiêu chí, đặc trưng chuẩn mực về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, thời kỳ mới. Từng HSQ-BS cần tích cực, nổ lực phấn đấu vươn lên, đề cao ý chí tự giác trong học tập, rèn luyện, công tác, từng bước hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người quân nhân cách mạng. Quá trình đó, các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ trì các cấp thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả qua từng tháng, quý, năm để điều chỉnh kế hoạch phấn đấu, tu dưỡng của cá nhân, tập thể; coi hoạt động tự phê bình và phê bình để có nhận thức đúng về phương pháp học tập, rèn luyện, sớm hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người quân nhân, trong đó có tình đồng chí, đồng đội

Bốn là, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; xây dựng các mối quan hệ tích cực, lành mạnh ở đơn vị

Quan tâm chăm lo mọi mặt đời sống cho HSQ-BS, bản chất là hướng đến thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của họ, tạo ra nền tảng vật chất để bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội cho HSQ-BS. Thực tế cho thấy, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị nào quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ, thì đơn vị đó luôn đoàn kết, thống nhất, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nếu những nhu cầu thiết yếu của HSQ-BS không được đảm bảo, sẽ hình thành những tiêu cực, lối sống cực đoan, thái độ thờ ơ, vô cảm với đồng chí, đồng đội. Sự quan tâm chăm lo đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị có tác dụng rất lớn, nó được ví như chất xúc tác gắn bó keo sơn giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa các quân nhân, giữa chiến sĩ với đơn vị, là mệnh lệnh không lời để họ tích cực tham gia các hoạt động quân sự.

Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần chú ý giải quyết tốt nhu cầu lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện dân chủ trên cả ba mặt: Chính trị tư tưởng, huấn luyện, công tác và đời sống kinh tế. Đảm bảo mọi chế độ, chính sách, quyền lợi và đời sống mọi mặt cho HSQ-BS. Thường xuyên chăm lo xây dựng mối quan hệ tích cực trong đơn vị, tạo bầu không khí tâm lý lành mạnh, môi trường văn hóa, giao tiếp quân sự để HSQ-BS có đời sống tinh thần tập thể ấm cúng, vui tươi, chan hòa giữa cán bộ với chiến sĩ; giữa cấp trên với cấp dưới và giữa những người đồng chí, đồng đội với nhau. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, loại bỏ những biểu hiện tiêu cực, không phù hợp lợi ích tập thể, những nhu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng.

Tình đồng chí, đồng đội là một phẩm chất nhân cách của người quân nhân cách mạng, được xây dựng trên cơ sở nhận thức sâu sắc, ý chí hành động mạnh mẽ, niềm tin cách mạng vững chắc. Bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội của HSQ-BS ở các đơn vị trong Quân đoàn cũng chính là tác động trực tiếp vào cơ sở tâm lý, làm nền tảng cho các hành động cách mạng, tạo nên sức mạnh nội sinh của tập thể đơn vị; tình đồng chí, đồng đội của HSQ-BS sẽ luôn được phát huy và lan tỏa trong mọi điều kiện, hoàn cảnh; đồng thời, cũng là điều kiện để HSQ-BS thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực tiêu biểu.

Tuesday, August 6, 2024

XÂY DỰNG QUÂN ĐOÀN VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ. ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Xây dựng Quân đoàn vững mạnh về chính trị là một nguyên tắc cơ bản, vấn đề xuyên suốt, hàng đầu, tạo tiền đề để xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, tinh, gọn, mạnh; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; đủ sức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện xây dựng Quân đoàn vững mạnh về chính trị một cách đồng bộ, chặt chẽ, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Các cấp đã tập trung làm tốt việc giáo dục, quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận, hướng dẫn về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường lãnh đạo giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đoàn. Chủ động thông tin, tuyên truyền, kịp thời định hướng tư tưởng, thống nhất nhận thức cho bộ đội, nhất là trước những vấn đề mới, phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quốc phòng, an ninh và trong nhận diện, phân biệt rõ đối tác, đối tượng, không mơ hồ, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quy chế giáo dục chính trị, Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; kế hoạch giáo dục chính trị, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các đối tượng (Cán bộ, đảng viên, QNCN tham gia học tập hàng năm trên 98%; HSQ-BS, VCQP và quần chúng trên 99%; kết quả giáo dục chính trị cho các đối tượng HSQ, BS có 100% đạt yêu cầu trở lên; trong đó có trên 84,6% khá, giỏi; kết quả kiểm tra nhận thức viết bài thu hoạch cho đối tượng SQ, QNCN có 100% đạt yêu cầu trở lên; trong đó có trên 86,7% khá, giỏi).

Cùng với đó, công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, công tác phát triển đảng luôn được quan tâm, chú trọng, chất lượng ngày càng được nâng lên. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, cán bộ hằng năm. (Tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2023 tăng 3% so với năm 2021; đảng viên hoàn thành nhiệm vụ năm 2023 giảm 2,72% so với năm 2021; đảng viên không hoàn thành niệm vụ năm 2023 giảm 0,02% so với năm 2021).

Đã thực hiện đồng bộ, toàn diện công tác bảo vệ chính trị nội bộ, dân vận, chính sách, công tác quần chúng. Trong đó tập trung quán triệt và triển khai chặt chẽ công tác bảo đảm an ninh, an toàn trong các nhiệm vụ; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tăng cường sinh hoạt đối thoại dân chủ với cơ quan, đơn vị; tiến hành tốt công tác tuyên truyền vận động Nhân dân, kết hợp với làm công tác dân vận; góp phần xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết quân dân (Bình quân hàng năm: Thủ trưởng BTL Quân đoàn sinh hoạt đối thoại dân chủ với hơn 1.800 SQ, QNCN của các đầu mối trực thuộc; các cơ quan, đơn vị tổ chức hơn 60 buổi sinh hoạt đối thoại dân chủ với hơn 10.000 cán bộ, chiến sĩ; huấn luyện, dã ngoại làm công tác dân vận kết hợp với tuyên truyền vận động nhân dân hơn 23 buổi, với hơn 28.100 lượt người; tham gia trên 6.900 ngày công lao động).

Công tác chính sách đối với Quân đội, hậu phương Quân đội, nhất là chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất cho cán bộ, chiến sĩ luôn được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, qua đó kịp thời chia sẻ, động viên cán bộ, chiến sĩ an tâm công tác (Hàng năm Quân đoàn tổ chức tặng quà cho các đối tượng gia đình quân nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hộ dân nghèo, trẻ em khuyết tật trên địa bàn đóng quân và ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trong dịp lễ, Tết  với số tiền trên 20.490.000.000 đồng và hàng chục tấn gạo). Luôn quan tâm chăm lo xây dựng các tổ chức quần chúng; bảo đảm phát huy tốt vai trò, chức năng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị (Hàng năm giới thiệu kết nạp đoàn viên ưu tú vào Đảng luôn vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra; phối hợp với các đơn vị kết nghĩa tổ chức tốt các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, nổi bật là thực hiện Chiến dịch Thanh niên tình nguyện Hè với hơn 9.000 ngày công lao động).

Qua đó, tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ an tâm tư tưởng xác định tốt nhiệm vụ; chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị được nâng lên, góp phần xây dựng tổ chức đảng TSVM tiêu biểu, cơ quan, đơn vị VMTD “Mẫu mực, tiêu biểu”; tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo; cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có chiều hướng gia tăng; xung đột quân sự Nga-Ukraina vẫn còn tác động mạnh mẽ, nhiều mặt đến các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp; các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động chống phá ngày càng quyết liệt hơn. Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn trọng điểm tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định. Quân đội tiếp tục điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh. Quân đoàn vừa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa thực hiện lộ trình giải thể, sáp nhập theo Kế hoạch của Bộ Quốc phòng.

Monday, August 5, 2024

QUÂN ĐOÀN 4 - BINH ĐOÀN CỬU LONG - CHỦ LỰC CƠ ĐỘNG “QUẢ ĐẤM THÉP”

Thắng lợi to lớn, toàn diện trên hai miền Nam - Bắc bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 buộc Mỹ ký kết Hiệp định Pa-ri (27/01/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt căn bản cho cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sang giai đoạn mới, mang tính quyết định; với Hiệp định Pa-ri, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “Đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo so sánh lực lượng mới, thuận lợi cho mục tiêu “Đánh cho ngụy nhào” hoàn thành giải phóng miền Nam.

Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước (tháng 10/1973), Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam; ở Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, từ đầu năm 1974, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền đã chỉ đạo lập phương án tổ chức biên chế, dự thảo chức năng nhiệm vụ của một Quân đoàn chủ lực trên chiến trường. Để cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, toàn Đảng, toàn Quân và toàn Dân ta nỗ lực chuẩn bị mọi mặt, nhất là chuẩn bị tổ chức xây dựng các Quân đoàn cơ động chiến lược. Trước bối cảnh đó, tiếp theo sự ra đời của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2, ngày 20/7/1974, tại Khu căn cứ Suối Bà Chiêm, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh (nay là xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh), trên chiến trường miền Đông “Gian lao mà anh dũng”, đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chính thức công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), bao gồm các đơn vị đã có bề dày truyền thống chiến đấu trên các chiến trường. Sự ra đời của Quân đoàn 4 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đánh dấu bước trưởng thành, lớn mạnh về tổ chức lực lượng, trình độ năng lực tổ chức chỉ huy cả về chất và lượng, tạo nên “Quả đấm thép” chủ lực đủ mạnh trên địa bàn chiến lược ngay sát cửa ngõ Sài Gòn.

Sau 5 tháng được thành lập, ngay trận đầu ra quân, tháng 01/1975, Quân đoàn đã làm nên chiến thắng Đường 14 - Phước Long (từ ngày 30/12/1974 đến ngày 06/01/1975), giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long - đưa Phước Long là tỉnh đầu tiên của miền Nam được hoàn toàn giải phóng, uy hiếp trực tiếp hệ thống phòng thủ phía Bắc Sài Gòn. Đây là “Đòn trinh sát chiến lược”, tạo cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong năm 1975. Chiến công nối tiếp chiến công, trong tháng 3/1975, Quân đoàn cùng với lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ giải phóng Dầu Tiếng, Chơn Thành, Định Quán, Lâm Đồng,… làm chủ hoàn toàn Đường 13, Đường 14 và Đường 20, mở rộng các hành lang cơ động và vận chuyển lớn lực lượng, vật chất vào chiến trường, chuẩn bị địa bàn tập kết lực lượng, tạo thế và lực cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Qua các trận Dầu Tiếng, Chơn Thành, Định Quán; cán bộ, chiến sỹ Quân đoàn 4 đã trưởng thành lên, có thêm nhiều kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt quân địch trong công sự vững chắc và nhất là trong trận tiến công giải phóng đường 20 và tỉnh Lâm Đồng, Quân đoàn đúc rút được kinh nghiệm tổ chức đội hình tiến công bằng cơ giới, cơ động nhanh, vừa đi vừa đánh địch. Trong thế phát triển như vũ bão, ngày 02/4/1975, Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Quân đoàn triển khai lực lượng trên hai hướng: Đông và Tây Nam Sài Gòn. Sư đoàn 9 tạm thời tách khỏi đội hình Quân đoàn hoạt động trên hướng Tây Nam trong đội hình Đoàn 232 (Binh đoàn Tây Nam).

Ngày 08/4/1975, Quân đoàn được giao nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc. Đây là tuyến phòng thủ liên hoàn kéo dài từ Phan Rang, Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó Xuân Lộc là cụm cứ điểm trọng tâm, nằm trên Quốc lộ 1, cách Sài Gòn hơn 60 km về phía Đông Bắc. Chúng ta biết rằng khi đó, Uây-en đã nói với Nguyễn Văn Thiệu và các tướng ngụy:phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, là khu vực phòng thủ kiên cố nhất được mệnh danh là “cánh cửa thép” của địch, nhằm ngăn chặn ta tiến công Biên Hòa, Sài Gòn theo Quốc lộ 1 và Đường 20, như chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 ngụy huênh hoang tuyên bố: “Việt cộng dù có thêm mấy sư đoàn nữa cũng không thể chiếm được Long Khánh…Việt cộng muốn qua Long Khánh phải bước qua xác của Đảo này”. Sau thời gian khẩn trương làm công tác chuẩn bị, ngày 09/4/1975, Quân đoàn nổ súng mở màn chiến dịch, bằng nhiều trận đánh liên tiếp, giằng co, ác liệt, trên nhiều hướng. Địch tổ chức lực lượng chống trả điên cuồng (sử dụng cả bom CBU-55 có sức hủy diệt lớn để ngăn chặn), quyết giữ Xuân Lộc bằng mọi giá, bởi chúng xác định mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn. Ta phát triển khó khăn, phải thay đổi cách đánh, tổ chức lực lượng kiềm chế, bao vây, nghi binh,… Thực hiện chiến thuật vận động tiến công giải phóng chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây và chốt chặn chiến dịch đánh địch phản kích, cắt đứt Quốc lộ 1 đoạn Xuân Lộc, Bàu Cá, Đường 20; ngăn chặn không cho địch tăng viện từ Biên Hòa, Bà Rịa lên. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, hơn nữa đã mất Dầu Giây, Xuân Lộc không còn thế phòng thủ, ngày 20/4/1975, địch buộc phải rút chạy khỏi Xuân Lộc. Các đơn vị của Quân đoàn cùng lực lượng vũ trang địa phương tổ chức truy kích diệt một bộ phận lớn quân địch, bắt sống tên đại tá tỉnh trưởng Long Khánh. Ngày 21/4/1975, thị xã Xuân Lộc hoàn toàn giải phóng, “cánh cửa thép” ở cửa ngõ phía Đông Sài Gòn mở toang. Sau 12 ngày đêm tiến công, Quân đoàn cùng lực lượng vũ trang địa phương đập tan chiến tuyến phòng ngự kiên cố nhất của địch ở Đông Bắc, tạo thuận lợi cho các Binh đoàn chủ lực triển khai lực lượng tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh, Quân đoàn cấp tốc điều chỉnh lực lượng, cùng lực lượng vũ trang địa phương áp sát chuẩn bị tiến công giải phóng Sài Gòn. Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, bằng nhiều trận đánh liên tục trong hành tiến, diễn ra gay go, quyết liệt, Quân đoàn phối hợp với các lực lượng lần lượt giải phóng Trảng Bom, sân bay Biên Hòa, Tam Hiệp và tiến thẳng về Sài Gòn. Trên hướng Tây Nam, Sư đoàn 9 (lực lượng chủ yếu trong đội hình Đoàn 232) giải phóng thị xã Hậu Nghĩa, Long An, Bến Lức, các địa bàn thuộc Quận 8, Quận 10, Quận 5, đánh chiếm Biệt khu Thủ Đô, bắt sống tướng Lâm Văn Phát - Tư lệnh Biệt khu. Đến trưa ngày 30/4/1975, đội hình Quân đoàn có mặt tại Sài Gòn - “Điểm hẹn lịch sử” - trong giờ phút thiêng liêng của ngày vui Đại thắng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn và triệt để sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc ta kéo dài ngót một phần ba thế kỷ. Cách mạng Việt Nam bước sang một thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cán bộ, chiến sỹ Quân đoàn 4 bước vào thực hiện nhiệm vụ mới, nhiệm vụ quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định; xây dựng địa bàn đóng quân, củng cố tổ chức, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và tham gia lao động sản xuất trong bối cảnh kinh tế - xã hội muôn vàn khó khăn. Trong số hơn 3,5 triệu dân vốn là dân Thủ đô của ngụy quyền hoang mang, sợ Cộng sản, nghi ngờ cách mạng; một bộ phận lớn tàn quân địch tan rã tại chỗ, lén lút trong dân; các loại tệ nạn xã hội tràn lan….. Nhưng được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mà trực tiếp là Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, quyết tâm chính trị cao của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh và mọi cán bộ, chiến sỹ; cùng với sự đùm bọc ủng hộ của nhân dân, Quân đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân quản, xứng đáng với lời khen ngợi “Các đồng chí vào thành, vững như thành” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Khi tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa - ri phát động chiến tranh xâm lược nước ta ở biên giới Tây Nam, từng bộ phận, rồi cả Quân đoàn hành quân lên biên giới, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh với bộn bề những công việc chưa kịp thực hiện, chưa đánh giá hết âm mưu và thủ đoạn tác chiến của kẻ thù - đối tượng tác chiến mới, nhưng với quyết tâm đánh bại quân xâm lược, bảo vệ từng tấc đất chủ quyền của Tổ quốc, Quân đoàn đã khẩn trương bước vào cuộc chiến đấu mới, thực hành phản công và tiến công, cùng đơn vị bạn và các tầng lớp nhân dân khôi phục, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc.

Đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và quân đội giao cho, giương cao tinh thần “Giúp bạn là tự giúp mình; cùng với các đơn vị vũ trang nước bạn, Quân đoàn 4 đã thực hiện đòn phản công chiến lược, giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Mười năm làm nghĩa vụ quốc tế trên đất nước Campuchia, cán bộ, chiến sỹ của Quân đoàn đã quán triệt tốt nhiệm vụ, nêu cao tinh thần quốc tế cao cả, chấp hành nghiêm kỷ luật, tận tình giúp Bạn củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, trấn áp tàn quân Khmer Đỏ và giúp nhân dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống, góp phần cho đất nước Campuchia từng bước được hồi sinh, phát triển.

Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước, Quân đoàn thực hiện chức năng của một Binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ trên địa bàn chiến lược trọng điểm phía Nam của đất nước; Quân đoàn vừa ổn định nơi ăn, chốn ở, giải quyết chính sách cán bộ và hậu phương quân đội, vừa tập trung huấn luyện, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý rèn luyện kỷ luật, nâng cao bản lĩnh chính trị cho bộ đội, tham gia lao động phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài.

Thực hiện đường lối đổi mới, trước yêu cầu xây dựng Quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn tiếp tục thực hiện có chất lượng và hiệu quả phương châm, tư tưởng chỉ đạo:Một tập trung, hai thường xuyên, ba khâu đột phá, bốn cùng bộ đội và xây dựng đảng viên năm tốt”; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh “Tiêu biểu”, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực tiêu biểu”; từng bước xây dựng, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và củng cố doanh trại ngày càng “Chính quy, xanh, sạch, đẹp”.

Ra đời, trưởng thành và lớn mạnh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, với nòng cốt là các đơn vị chủ lực Miền đã kinh qua và có bề dày truyền thống. Quân đoàn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách; càng chiến đấu càng trưởng thành, càng chiến đấu càng chiến thắng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Với những thành tích xuất xắc đã đạt được trong 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đoàn 4 vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăng - co. Tất cả các sư đoàn của Quân đoàn đều được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó các sư đoàn 7, 9, 341 được tuyên dương hai lần. 78 đơn vị cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội và 51 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác. Những công lao của cán bộ, chiến sỹ Quân đoàn 4 được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, tôn vinh là thành quả của bao lớp cán bộ, chiến sỹ của Quân đoàn đúc rút kinh nghiệm xương máu, cho những bài học quý báu, không những giá trị cho hôm nay mà còn mãi mãi về sau.

Đó là bài học, nâng cao nhận thức làm yếu tố quyết định giữ vững sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chỉ huy các cấp, phát huy cao độ nhân tố chính trị - tinh thần, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Trong điều kiện hết sức khó khăn, nhất là Quân đoàn đảm nhiệm tiến công cả trên hai hướng, đội hình phân tán, thời gian chuẩn bị gấp, quân số, vũ khí, trang bị chưa kịp bổ sung, trong khi các mục tiêu đảm nhiệm đều có sức kháng cự cao, nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới bản lĩnh, ý chí quyết tâm và tư tưởng của bộ đội. Để hoàn thành nhiệm vụ, Quân đoàn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường quán triệt, giáo dục nhiệm vụ; đề cao vai trò tiền phong gương mẫu, đi đầu trước những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm của cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, 100% cán bộ, chiến sỹ đều sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không ngại khó khăn, nguy hiểm, nhiều đồng chí đã ngã xuống trước ngày chiến thắng.

Đó là bài học, tập trung rèn luyện làm yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng cơ động, trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng. Thực tế sau mỗi trận đánh, Quân đoàn đều tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về cách đánh, hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu, sự phối hợp tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Nhiều vấn đề tổng kết được kịp thời bổ sung vào chương trình huấn luyện, đặc biệt là huấn luyện cán bộ. Vì vậy, hiệu suất chiến đấu của Quân đoàn rất cao, tỷ lệ thương vong, tổn thất thấp. Một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đó là Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tư lệnh đã xây dựng được các đơn vị chủ lực cơ động mạnh, tạo được sức chiến đấu cao, khả năng đột kích mạnh “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng”.

Bài học đó là, không ngừng củng cố, tăng cường mối đoàn kết, nhất là mối đoàn kết máu thịt Quân - dân. Đây là một bài học về đường lối chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta đã được thể hiện một cách rõ nét, sinh động nhất. Trong các chiến dịch, nhân dân địa phương đã chuẩn bị lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh cho Quân đoàn và các đơn vị tham gia chiến dịch; bộ đội địa phương, dân quân, du kích dẫn đường, chỉ mục tiêu, đánh chiếm làm chủ các đầu cầu, khống chế sân bay, trận địa pháo binh địch, v.v. Có thể nói, Quân đoàn không thể hoàn thành nhiệm vụ khi không có sự giúp đỡ, đùm bọc, che chở, phối hợp chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương.

Năm 2024, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Quân đoàn (20/7/1974 - 20/7/2024), là năm hoàn thành triển khai thực hiện Nghị quyết 05/NQ-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 230/NQ-QU của Quân ủy Trung ương, kế hoạch số 1228/KH-BQP của Bộ Quốc phòng và Nghị quyết số 280-NQ/ĐU của Đảng ủy Quân đoàn về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Theo kế hoạch, lộ trình cụ thể trong quý II và quý III hoàn thành việc giải thể sáp nhập Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và thành lập Quân đoàn 34. Theo đó các cơ quan, đơn vị của Quân đoàn 4 một số được điều chuyển về các đơn vị của Bộ, một số được điều về Quân khu 7, số còn lại về Quân đoàn 34.

Để bảo đảm cho Quân đoàn vừa làm tốt hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Quân đoàn, vừa thực hiện tốt công tác sáp nhập, giải thể, điều chuyển bảo đảm chặt chẽ, an toàn, chu đáo, 100% cán bộ, chiến sĩ yên tâm tư tưởng, cả trước, trong và sau sáp nhập, giải thể. Thực hiện Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn, cấp ủy, chỉ huy các cấp ra Nghị quyết lãnh đạo, xây dựng kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, sát đặc điểm, tình hình nhiệm vụ đơn vị; tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ đặc biệt là cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp, nhận thức sâu sắc, nhất trí cao với đường lối, chủ trương của Đảng, xác định tốt tư tưởng, trách nhiệm, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Năm tháng rồi sẽ qua đi, nhưng những dấu ấn lịch sử đặc biệt và truyền thống của Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng” vẫn còn trường tồn với Đảng Cộng sản Việt Nam, Dân tộc và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.