Monday, December 25, 2017

Công tác Tuyên giáo cần chủ động, chính xác, nhanh nhạy

(ĐCSVN) – Sau một ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao, chiều 25/12, Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác Tuyên giáo năm 2017, triển khai nhiệm vụ công tác năm 2018 đã bế mạc. Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu kết luận Hội nghị.
Đồng chí Võ Văn Thưởng đánh giá Hội nghị đã thành công tốt đẹp với nhiều ý kiến đóng góp khá sôi nổi, có chất lượng. Các đại biểu nhất trí cao với dự thảo báo cáo, làm rõ thêm tính đa dạng, sinh động của công tác Tuyên giáo trong từng địa bàn, lĩnh vực, nêu một số vấn đề bức thiết đang đặt ra đối với công tác Tuyên giáo trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ sớm hoàn chỉnh báo cáo đánh giá công tác ngành năm 2017 và chương trình công tác năm 2018 để gửi tới Ban Tuyên giáo các địa phương và đảng ủy trực thuộc trung ương nhằm triển khai thực hiện và báo cáo thường trực các tỉnh ủy, thành ủy phối hợp chỉ đạo ngành Tuyên giáo các cấp.
Đồng chí Võ Văn Thưởng cho rằng, trong năm 2017, ngành Tuyên giáo đã hoàn thành một khối lượng công việc lớn, trong đó có nhiều điểm mới, khó, phức tạp, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, bảo vệ an ninh tư tưởng của Đảng, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, trong xã hội, tạo tinh thần để đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại của năm 2017.
Về nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh một số nội dung. Trong đó, vấn đề quan trọng nhất là tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác Tuyên giáo đáp ứng yêu cầu thực hiện chính trị của Đảng và đất nước trong tình hình hiện nay.

Đại biểu dự Hội nghị 
Hiện nay, công nghệ thông tin, tri thức nhân loại phát triển như vũ bão, có tác động mạnh mẽ vào cuộc sống xã hội, xu hướng vận động của toàn xã hội, mang lại những điều tích cực nhưng cùng với đó cũng đưa đến những tiêu cực, điều này đòi hỏi người làm công tác Tuyên giáo cần nhanh nhạy với chuyển biến mới.
Theo đồng chí Võ Văn Thưởng, thực tế sự phát triển thông tin như thời gian qua cho thấy lợi thế thuộc về người nhanh nhạy và chiếm lĩnh trên trận địa thông tin. Điều này đúng ở cả phạm vi quốc tế, quốc gia, ở lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế và các lĩnh vực khác… Từ đó đặt ra nhiệm vụ cho đội ngũ những người làm công tác Tuyên giáo phải tích cực đổi mới tư duy, phương pháp tiếp cận, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, định hướng, chỉ đạo thông tin. Để thích ứng với bối cảnh mới, công tác tư tưởng phải đổi mới theo hướng đi trước, để định hướng tư tưởng chính trị, dư luận xã hội, mở đường cho chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đi vào cuộc sống; khắc phục tối đa tình trạng đi theo, chạy theo, nói lại trong định hướng thông tin.
“Công tác Tuyên giáo không thể chậm chạp bằng lối hành chính giản đơn mà cần phải đi trước, đón đầu bằng công tác dự báo chính xác các vấn đề, các tình huống tư tưởng, dư luận xã hội để chủ động định hướng thông tin, lấy độ chính xác, độ nhanh nhạy của thông tin làm vũ khí sắc bén cho trận địa tư tưởng. Thông tin nhanh nhưng phải chính xác và truyền đi thông điệp chính trị cao, cách biểu đạt và phương thức truyền tin phải phù hợp với xu hướng tiếp cận thông tin hiện nay”, đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh.
Đồng chí Võ Văn Thưởng cũng cho rằng, thực tế cho thấy, mạng xã hội tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, làm cho con người nhạy cảm hơn, dễ bị tổn thương hơn và ở một khía cạnh nào đó làm cho con người có vẻ vô cảm và nhẫn tâm hơn. Một sự kiện xảy ra trên mạng xã hội, người ta sẵn sàng lên mạng “ném đá” nhau. Từ đây đặt ra việc ngành Tuyên giáo ứng xử vấn đề này như thế nào? Hay như trước đây ngành Tuyên giáo thường có độ trễ về thông tin với lý do kiểm chứng thông tin nhưng bây giờ lý do đó khó thuyết phục được. Bởi việc đưa thông tin càng chậm thì ngành Tuyên giáo lại rơi vào tình huống đi sau, nói lại. Cho nên, bây giờ ngành Tuyên giáo cần phải có thông tin chính xác, nhanh và độ trễ thông tin cần được rút ngắn lại. Ở nhiều lĩnh vực, cơ quan chức năng cứ lấy lý do bí mật, nhạy cảm nên không dám gửi nhanh cho báo chí, trong khi vấn đề này được bàn tán tràn lan trên mạng. Do đó, vấn đề này cũng cần sự điều chỉnh, thay đổi.
Để nâng cao chất lượng công tác Tuyên giáo trong tình hình hiện nay, đồng chí Võ Văn Thưởng khẳng định ngành Tuyên giáo cần phối hợp chặt chẽ, khoa học với các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội để phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động trí tuệ, tâm huyết xã hội vào công tác Tuyên giáo. Công tác tư tưởng của Đảng là một lĩnh vực đặc biệt, tác động sâu sắc tới mọi mặt đời sống xã hội, một mình lực lượng Tuyên giáo chuyên trách không thể làm hết mà phải có phương thức tổ chức lực lượng thật khoa học, sự kết nối rộng rãi và thống nhất giữa các lực lượng làm công tác Tuyên giáo để mang lại sức mạnh to lớn và trong từng thời kì có thể so sánh là mạnh hơn súng, đại bác, mạnh hơn các binh đoàn vũ trang và đủ sức làm lay chuyển được tình hình cách mạng. Bởi vì khi nhận thức đã thấm vào quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất rất to lớn. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử và sẽ luôn luôn đúng.
“Với khối lượng công việc lớn như hiện nay, tổ chức bộ máy gọn, biên chế giảm, điều quyết định cho chúng ta hoàn thành với chất lượng cao thì chúng ta phải tổ chức lực lượng cho tốt với tinh thần cả hệ thống làm công tác Tuyên giáo, cả hệ thống làm công tác tư tưởng”,Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh.
Nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, đồng chí Võ Văn Thưởng cho rằng chính việc áp dụng khoa học công nghệ tốt sẽ tạo lợi thế trong quản lý thông tin trên mạng. Đồng chí nêu hiện Việt Nam có 60 triệu người sử dụng Internet, đứng thứ 18 thế giới. Trong 60 triệu người đó, có 53 triệu người sử dụng Facebook, chưa kể các mạng xã hội khác (nằm trong top 10 thế giới), 23 triệu người sử dụng mạng xã hội khác, trong đó có Zalo khoảng 17 triệu người… Như vậy, chỉ cần 10% -20% trong số người sử dụng mạng xã hội trên làm công tác Tuyên giáo thì tình hình tuyên giáo sẽ tốt hơn rất nhiều. “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia mạng xã hội hàng ngày share (chia sẻ) cho nhau một bài báo hay, một tin tốt, một video hay, viết một comment (bình luận) tích cực, chân thành, một lời đấu tranh thẳng thắn thì sẽ góp phần làm cho công tác tư tưởng của Đảng tốt lên rất nhiều”, đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh./.

                                                                                                     VL


Tuesday, December 19, 2017

KHÔNG ĐƯỢC NHÂN DANH THIÊN CHÚA ĐỂ LÀM NHỮNG ĐIỀU TRÁI PHÁP LUẬT

                             (Một số hình ành diễn ra ở giáo xử Kẻ Gai)

Ở Việt Nam, cho dù là linh mục hay giáo dân đều phải làm tròn nghĩa vụ kính Chúa - yêu nước. Linh mục là người trực tiếp dẫn dắt giáo dân nêu gương sáng trong lối sống, sinh hoạt, yêu thương, hòa hợp với mọi người, giữ vững đức tin của người con Thiên Chúa và chu toàn bổn phận của người công dân. Như vậy, giáo dân cũng là công dân của một nước và không thể tách rời.
Vậy mà, sáng chủ nhật ngày 17-12-2017, dưới sự chỉ đạo của linh mục Nguyễn Đức Nhân, các giáo dân giáo xứ Kẻ Gai, thuộc xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ào ào xông ra chiếm đất nông nghiệp ở xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên để xây dựng thêm nhà thờ. Điều đáng nói, Giáo xứ này đã có nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo, nhưng những chủ chăn nơi đây vẫn đang cố khuếch trương thanh thế bằng cách tách giáo xứ Kẻ Gai để thành lập thêm một giáo họ khác. Phục vụ cho âm mưu này, linh mục Nguyễn Đức Nhân, dưới sự bảo kê của Giám mục Nguyễn Thái Hợp và các linh mục cực đoan khác, đã sử dụng chiêu bài “giáo dân hiến nhượng”, “chuyển nhượng” đất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp do nhà nước cấp cho giáo hội để tiến hành xây dựng cơ sở tôn giáo trái pháp luật. Khi bị phát hiện, chính quyền địa phương đã có mặt, yêu cầu chấm dứt. Đáp lại thiện chí của chính quyền, một số giáo dân quá giáo xứ Kẻ Gai khích dưới sự chỉ đạo của linh mục Nguyễn Đức Nhân đã rung chuông nhà thờ, kích động rất đông người tụ tập và đánh bị thương cán bộ của các lực lượng chức năng.
Dưới sự chỉ đạo của linh mục Nhân hàng ngàn người giữ chặt phần đất đã chiếm được và đỉnh điểm là sử dụng cuốc xẻng, gậy gộc, dao nhọn đả thương các chiến sĩ công an và dân quân tự vệ (nhiều dân quân tự vệ bị trọng thương phải đưa đi cấp cứu); đồng thời bắt giữ một sĩ quan cảnh sát, bắt giữ ông Chủ tịch huyện và một dân phòng làm con tin, nhằm uy hiếp, mặc cả với chính quyền. Chỉ khi lực lượng Cảnh sát Cơ động có mặt, Nguyễn Đức Nhân mới ra lệnh cho các giáo dân thả người. Hành động chống người thi hành công vụ đó đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế mà, mặt dày, bỉ ổi hơn là sau khi tấn công lực lượng thi hành công vụ, thì linh mục Nguyễn Đức Nhân lại la làng rằng, Công an đàn áp người. Thật là trơ trẽn!
Luật Đất đai 2013, của Nhà nước ta tại điểm d, khoản 1 Điều 57 nêu rõ: Nếu muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp cần phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mọi hoạt động mua bán, chuyển nhượng, thay đổi mục đích sử dụng đều phải tuân theo quy định của pháp luật. Như vậy, hành vi tự ý xây dựng nhà thờ của linh mục Nguyễn Đức Nhân và giáo dân giáo xứ Kẻ Gai đã vi phạm hành chính khi chuyển mục đích sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo điểm a, khoản 3, Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai, sẽ bị buộc phải khôi phục tình trạng của đất trước khi vi phạm; có thể bị xử phạt về việc xây dựng nhà ở mà không xin giấy phép xây dựng, vi phạm khoản 1 Điều 89 Luật Xây dựng năm 2014 và sẽ bị xử phạt theo khoản 6 Điều 13 Nghị định 121/2013/NĐ-CP. Đồng thời, các giáo dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, hoặc cố ý gây thương tích.
Hành động lục lâm, thảo khấu của linh mục Nguyễn Đức Nhân và một số giáo dân giáo xứ Kẻ Gai đã làm là trái với đạo lý và trái với lời của Chúa dạy, làm trái với Thư Chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam, rằng: “Người công giáo phải gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hòa mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình”.
Những hành động này chúng ta phải phê phán và chính quyền cần ngăn chặn, phải có biện pháp cứng rắn, không để những kẻ nhân danh Chúa để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích quốc gia, coi thường kỷ cương, phép nước./.  Theo Tre Việt.

Quân đoàn 4: Hội nghị Đảng ủy phiên cuối năm 2017











Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu chỉ đạo tại hội nghị phiên cuối năm Đảng ủy Quân đoàn 4 năm 2017.

Sáng ngày 19-12, Đảng ủy Quân đoàn 4 tổ chức Hội nghị phiên cuối năm 2017, triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2018. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (TCCT) Quân đội nhân dân Việt Nam đến dự, chỉ đạo Hội nghị.
Năm 2017, Thường vụ, Đảng ủy Quân đoàn 4 đã quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; lãnh đạo Quân đoàn thực hiện thắng lợi toàn diện các nhiệm vụ. Cán bộ, chiến sĩ trong Quân đoàn có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, nội bộ đoàn kết, thống nhất, sẵn sàng chiến đấu cao. Công tác huấn luyện, đào tạo, xây dựng nền nếp chính quy có bước chuyển biến rõ nét. Kiểm tra các khoa mục huấn luyện và nhận thức chính trị các đối tượng kết quả từ 70-80% khá, giỏi; diễn tập chiến thuật có bắn đạn thật đạt giỏi. Hoàn thành 100% chỉ tiêu đồng bộ, bảo quản, bảo dưỡng vũ khí trang bị, hệ số kỹ thuật đáp ứng tốt cho yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; đời sống bộ đội được cải thiện. Bên cạnh đó, phong trào đền ơn đáp nghĩa, quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới được thúc đẩy mạnh mẽ; Quân đoàn thăm, tặng quà, khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng chính sách với số tiền trên 16 tỷ đồng. Chăm lo, bảm bảo tốt chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ và hậu phương quân đội. Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, đánh giá khách quan kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2017; làm rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, trách nhiệm; xác định cụ thể mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2018.
Phát biểu tại hội nghị, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa ghi nhận và biểu dương những thành tích mà Quân đoàn 4 đạt được trong năm qua. Đồng chí Phó chủ nhiệm TCCT lưu ý, “Quân đoàn không được thỏa mãn, chủ quan với thành tích đã đạt được, cần khắc phục triệt để những hạn chế, khuyết điểm, tiếp tục tập trung lãnh đạo đơn vị nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng đơn vị, chú trọng thực hiện 3 khâu đột phá, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đoàn. Đặc biệt, phải xây dựng thế trận lòng dân thực sự vững chắc, đoàn kết gắn bó máu thịt với nân dân; nắm chắc tâm tư, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ; giữ vũng nguyên tắc trong đảng, đoàn kết thống nhất, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong năm 2018 và những năm tiếp theo. Trước đó, đồng chí Phó Chủ nhiệm TCCT đã đến dâng hương các anh hùng liệt sĩ tại Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ của Quân đoàn.
                                                                               Tin, ảnh: Lê Cầu

Chủ tịch nước Trần Đại Quang: 'Quân đội Nhân dân anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng'

TPO - Nhân kỷ niệm 73 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2017), Chủ tịch nước Trần Đại Quang có bài viết "Quân đội Nhân dân anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng", nhằm điểm lại những mốc son chói lọi của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Báo Tiền Phong trân trọng giới thiệu nội dung bài viết.
Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, do Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí minh vĩ đại sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân tin yêu gọi với cái tên trìu mến “Bộ đội Cụ Hồ”. Trải qua 73 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội ta ngày càng lớn mạnh, cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập được nhiều chiến công hiển hách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng Sam Cao, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo, được thành lập, đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta. Ngày 22 tháng 12 đã đi vào lịch sử vẻ vang dân tộc, trở thành Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày hội truyền thống của đất nước. Vừa mới thành lập, được nhân dân hết lòng thương yêu, giúp đỡ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã giành thắng lợi trong hai trận đánh đồn Phai Khắt (ngày 25-12-1944) và Nà Ngần (ngày 26-12-1944), gây tiếng vang lớn, mở đầu truyền thống “trăm trận trăm thắng” của quân đội ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cùng các đơn vị Cứu quốc quân, các đội du kích phát triển thành Việt Nam giải phóng quân, đã cùng đồng bào cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Quân đội ta đã quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ đánh du kích lên đánh chính quy, từ tiến công chiến thuật lên tiến công chiến dịch, tiến công và phản công chiến lược, càng đánh càng mạnh, lập nên những chiến công vang dội. Trải qua chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, Quân đội ta đã làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” và sau đó là “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, khoét sâu thế yếu của địch, làm cho địch càng đánh càng lâm vào thế bị động, càng đánh càng thua. Với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, quân và dân ta đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, một quân đội trang bị thô sơ đã đánh bại đội quân nhà nghề của một cường quốc thực dân. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Đây là mốc son chói lọi không chỉ đối với lịch sử dân tộc ta mà còn cả với nhân loại tiến bộ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ác liệt nhất, quy mô lớn nhất trong thời đại ngày nay, Quân đội ta với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đã cùng toàn Đảng, toàn dân không quản gian khổ, hy sinh, liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh phản cách mạng của năm đời tổng thống Mỹ: Chiến lược “Phản ứng linh hoạt” của Ai-xen-hao; chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Ken-nơ-đi; chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Giôn-xơn; chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Với những chiến thắng vang dội: Ấp Bắc, Vạn Tường, Bàu Bàng, Plâyme, Đường 9 - Nam Lào..., Quân đội ta càng đánh càng lớn mạnh, tiến công Mỹ - ngụy ở các thành phố, các sào huyệt của địch, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán hòa bình ở Pa-ri. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc đầy hy sinh, gian khổ, nhưng cũng rất hào hùng, oanh liệt. Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.
Không chỉ chiến đấu giải phóng dân tộc mình, Quân đội ta còn sát cánh với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Lào, Campuchia cùng chống kẻ thù chung, vì độc lập, tự do của mỗi nước. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa kết thúc thắng lợi, Quân đội ta lại bước vào cuộc chiến đấu ác liệt bảo vệ biên giới và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, để lại những hình ảnh tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân Campuchia.
Cùng với thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng mới, bản chất tốt đẹp và truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được tôi luyện qua các cuộc kháng chiến và chiến tranh vệ quốc tiếp tục tỏa sáng trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, Quân đội ta đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Chủ động nắm vững, phân tích, đánh giá và dự báo đúng tình hình, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng. Phối hợp, tham mưu, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống phức tạp nảy sinh, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.
Phát huy tốt vai trò nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh ở từng khu vực và trên phạm vi cả nước, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ vững mạnh. Tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố tiềm lực quốc phòng. Chủ động phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với Công an nhân dân và các bộ, ban, ngành, địa phương lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, phát huy sức mạnh tổng hợp, tích cực tham gia phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động và đấu tranh phòng, chống tội phạm…
Cùng với việc thực hiện tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, Quân đội ta còn làm tốt công tác dân vận, tích cực giúp nhân dân phát triển sản xuất, dạy học, chữa bệnh, xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu nạn, cứu hộ; xây dựng cơ sở chính trị ở cơ sở, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Thời gian tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta đang đứng trước tiền đồ hết sức vẻ vang, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố và các thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp với những đặc điểm mới. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ với những thủ đoạn ngày càng thâm độc, xảo quyệt hòng “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong bối cảnh trên, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, lực lượng vũ trang nhân dân nói chung phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng nỗ lực phấn đấu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao, bảo đảm hoàn thành tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất, thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chủ động nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế liên quan đến quốc phòng, làm tốt công tác dự báo chiến lược, kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp về bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, biển, đảo, vùng trời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc phù hợp với thực tiễn và đặc điểm của từng địa bàn, khu vực, nhất là địa bàn chiến lược và vùng biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, bảo đảm để các địa phương xử lý tốt các tình huống quốc phòng, an ninh trong cả thời bình và thời chiến.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; tăng cường tiềm lực quốc phòng, trước hết là tiềm lực về chính trị, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở và từ cơ sở.
Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng; đồng thời, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thi đua quyết thắng, tạo chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm chính trị và hành động cách mạng của cán bộ, chiến sĩ, giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân phải sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, trước hết là vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Toàn quân tiếp tục quán triệt, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng. Đảng bộ Quân đội gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa XII) về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kế thừa và phát huy truyền thống 73 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng đã, đang và sẽ viết nên những trang sử oanh liệt, làm rạng rỡ non sông, đất nước. Đảng, Nhà nước, nhân dân ta vô cùng tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng và mong muốn các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục lập nhiều chiến công, thành tích to lớn hơn nữa, xứng đáng với lời khen tặng của Bác Hồ kính yêu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” .
TRẦN ĐẠI QUANG - ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ,
CHỦ TỊCH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM


Monday, December 18, 2017

Diệt trừ tệ “báo cáo không trung thực”

QĐND - “Báo cáo không trung thực” là biểu hiện cụ thể của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cùng các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã nhận diện rất rõ tệ nạn này và điểm mặt, chỉ tên như “giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm”, “kê khai tài sản không trung thực”, “mắc bệnh thành tích”, “chạy thành tích”, "chạy danh hiệu”, “quan liêu, xa rời quần chúng”... Nếu xem nhẹ những biểu hiện trên sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Những bài học đau xót
Thực trạng của tệ “báo cáo không trung thực” hiện đang diễn biến ra sao? Sự tác động của nó đến bản chất và sự tồn vong của chế độ như thế nào? Đó là vấn đề cấp thiết đặt ra khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang triển khai thực hiện các nhóm giải pháp chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng.
Để nhận rõ tác hại ghê gớm của tình trạng “báo cáo không trung thực”, chúng ta thử nhìn lại tệ nạn này đã hoành hành ở Liên Xô trong suốt giai đoạn 1960-1991. Một tài liệu chuyên khảo khoa học của Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy: Đến giữa những năm 70 của thế kỷ 20, Liên Xô đã có những bước phát triển mạnh mẽ khiến cả thế giới nể phục, những thế lực đối trọng rất lo lắng. Nhưng rồi tệ “báo cáo không trung thực" đã góp phần dần dần hủy hoại Liên Xô hùng cường và vĩ đại. Những sai lầm trước, trong và sau cải tổ đã làm Liên Xô tan rã. Một nguyên nhân được khẳng định là ở giai đoạn cuối của Xô viết, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị quan liêu hóa, đường lối không còn sát thực tiễn, trở thành những văn bản “trên trời” nên mọi nỗ lực kêu gọi cải tổ đều bị người dân và chính đảng viên của Đảng thờ ơ, cho qua. 
Tệ “báo cáo không trung thực” đã trở nên phổ biến trong Đảng và toàn xã hội Liên Xô. Báo Tin Tức (Liên Xô) ra ngày 27-12-1986, đăng tin Cục trưởng Cục Thống kê một tỉnh bị bắt vì “báo cáo láo” theo chỉ thị của Tỉnh ủy đã trả lời: “Nếu tôi không làm thế thì sẽ có một cục trưởng khác ngồi ở đây”. Còn Báo Ngọn lửa nhỏ, số 46 năm 1988, khẳng định: “Thông tin chính xác về kinh tế thì ngay Bộ Chính trị cũng không có”. Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 22-8-1973 đã phải ban hành một nghị định ngăn chặn tệ “báo cáo láo” khi quy định phạt 7% giá trị hàng hóa, nếu phát hiện các nông trang và cửa hàng “bắt tay nhau” để dối trá về số lượng bơ sản xuất được.
Đến nay, chúng ta đã có đủ cơ sở để khẳng định, tệ “báo cáo không trung thực” là tác nhân quan trọng làm quan liêu hóa bộ máy Đảng và Nhà nước Liên Xô, là một trong những nguyên nhân khiến nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới phải sụp đổ. Điều đó hoàn toàn logic với lời cảnh báo của Lênin về bệnh phô trương “thành tích ảo”, thói xu nịnh cấp trên có hệ thống ở nhiều cấp, nhiều ngành để lâu dần thành “thói quen nguy hiểm” ở Liên Xô.
Thực trạng ở nước ta, theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), tình trạng “báo cáo không trung thực” kéo dài cũng đã và đang khiến nhiều cán bộ, đảng viên dường như quên đi những lời cảnh báo của Lênin và thực tiễn đã xảy ra ở Liên Xô. Nhiều cấp ủy, chính quyền ở một số địa phương dường như đang chấp nhận điều đó như một phần của quá trình phát triển, không hề nghĩ rằng đó là thứ “giặc nội xâm”, bệnh “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" đe dọa sự tồn vong của chế độ XHCN.
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nhấn mạnh: “Lãnh đạo mà thiếu thông tin, không có căn cứ thực tiễn, thì khó tránh được những quyết định sai lệch”. Trong thực tế, Đảng ta đã có Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) đề cập đến việc khắc phục vấn đề này nhưng tình trạng “báo cáo không trung thực” ở một số địa phương, ban, ngành chưa có dấu hiệu giảm, mà còn có những sự kiện, hiện tượng phức tạp hơn. Cụ thể như vụ việc ở Thái Bình cách đây hai mươi năm, tình hình ở cơ sở vô cùng phức tạp, mất dân chủ trở nên phổ biến nhưng Tỉnh ủy lúc đó vẫn báo cáo không đúng, không đủ với Trung ương. Thậm chí, nhiều đoàn kiểm tra của Trung ương về, địa phương vẫn tìm cách giấu giếm thực tế khiến sự việc thêm trầm trọng. Hay một số tổ chức đảng ở các tập đoàn kinh tế như Vinashin, Vinalines… không chỉ giấu giếm chuyện làm ăn thua lỗ mà còn giấu nhẹm cả chuyện nội bộ bất đồng, mất dân chủ, khiến cấp ủy cấp trên vẫn đánh giá đó là những đảng bộ trong sạch, vững mạnh (TSVM) cho đến khi sự thật bị phơi bày ra công luận. Người viết bài này từng được phân công điều tra, viết bài về vụ tiêu cực ở PMU18 (Bộ Giao thông vận tải) năm 2006, qua tìm hiểu cho thấy tổ chức đảng ở đó mất sức chiến đấu, thành “bức bình phong” cho Tổng giám đốc Bùi Tiến Dũng thao túng cơ quan nhưng vẫn được đánh giá là TSVM cho đến khi mọi việc được làm sáng tỏ. Hay như tình trạng “mì tôm cứu trợ đi nhầm vào nhà cán bộ”, kê khai tài sản thiếu trung thực của một số cán bộ cấp cao thời gian gần đây đã gây bức xúc trong dư luận. 
"Bệnh thành tích" là nguyên nhân chính
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong các buổi tiếp xúc cử tri TP Hà Nội đã bày tỏ sự lo lắng, sốt ruột trước thực trạng “nhìn đâu cũng thấy tiêu cực, thanh tra ở đâu cũng có sai phạm”. Tiêu cực rất phổ biến nhưng trong các bản báo cáo, đánh giá cuối năm của cấp ủy, chính quyền các địa phương và các ban, ngành thì hầu như không thấy đề cập. Tương tự như vậy, đến nay, công tác tự phê bình và phê bình đảng viên cuối năm, chưa có mấy chi bộ, tổ chức cơ sở đảng chỉ ra khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên về kê khai tài sản. Nhưng hễ có vụ việc nào do nhân dân tố giác hoặc báo chí phản ánh, thì tiến hành thanh tra đều chỉ ra sai phạm. Điều này cho thấy, tình trạng “thiếu trung thực” thực sự đã trở nên cấp bách, cần được khắc phục ngay.
Bài học thành công của sự nghiệp đổi mới, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, xét đến cùng cũng là bài học về sự trung thực. Đó là tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”. Nhưng sau 30 năm đổi mới, những thành công bước đầu khiến cấp ủy, chính quyền nhiều nơi sinh ra chủ quan, cùng với tác động từ những mặt trái của cơ chế thị trường khiến tệ “báo cáo không trung thực” lại trỗi dậy và tìm thấy nhiều “đất sống”.
Dư địa để tệ “báo cáo không trung thực” đang “sống khỏe” hiện nay có nhiều, nhưng tựu trung lại vẫn là nguyên nhân do người nhận báo cáo và người báo cáo, tức là giữa cấp trên và cấp dưới. Nguyên nhân trước tiên là do cấp trên quan liêu, xa dân, thích thành tích nên đã chấp nhận, bao che hoặc làm ngơ rồi dẫn đến mặc nhiên công nhận những bản báo cáo sai sự thực. Ví dụ, báo cáo tổng kết năm của hầu hết các địa phương đều khẳng định rằng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của địa phương (GRDP) ở mức 9-10%, thậm chí có địa phương nhiều năm liền giữ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hai con số. Thế nhưng tổng hợp chung, GDP của đất nước nhiều năm gần đây chưa được 7%. Sự vô lý này đã kéo dài, nhưng vì nghị quyết của cấp ủy các địa phương đã định ra mục tiêu tăng trưởng khiến ngành thống kê địa phương phải “chạy theo”. 
Nguyên nhân thứ hai dẫn tới tình trạng “báo cáo không trung thực” đến từ cấp dưới. Cấp dưới mắc “bệnh thành tích” nên cố tình che giấu khuyết điểm, thổi phồng, tô vẽ thành tích để qua mặt cấp trên; hoặc là cấp dưới biết cấp trên quan liêu, thích “thành tích” nên cố tình “nặn” ra những báo cáo gian dối. 
Làm gì để khắc phục tình trạng “báo cáo không trung thực”?
Làm thế nào để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “báo cáo không trung thực”, không cho các thế lực thù địch lợi dụng những bản báo cáo này nhằm xuyên tạc, bịa đặt, “nhồi sọ”, “ám thị” quần chúng, nhân dân? Cách làm cơ bản nhất là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết từ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Kiểm soát khéo bao nhiêu, khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.
Song muốn thanh tra, kiểm tra có kết quả tốt, nhất định người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải làm được hai việc: Một là thanh tra, kiểm tra phải có hệ thống, phải là nhiệm vụ được tiến hành thường xuyên, kết hợp tốt giữa định kỳ và đột xuất, khi thấy dấu hiệu không trung thực. Hai là đội ngũ những người thanh tra, kiểm tra phải là những người vừa có năng lực chuyên môn, vừa là những con người trung thực. Thanh tra, kiểm tra có hai cách: Một là từ trên xuống, nghĩa là cấp trên phải trực tiếp đi tận nơi, xem xét vấn đề tại chỗ, từ đó đối chiếu với những điều mà cấp dưới đã báo cáo, xem đúng-sai như thế nào; ưu, khuyết điểm của cấp dưới cũng như tính thực tiễn trong các mục tiêu, chỉ thị do mình ban ra. Hai là, thanh tra, kiểm tra phải dựa vào quần chúng, vào cấp dưới và dựa vào nhân dân; nhờ nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên và cơ quan cấp trên; từ thông tin của quần chúng, nhân dân mà tổ chức kiểm tra, thanh tra những nơi “làm thì láo, báo cáo thì hay”; từ những góp ý của nhân dân mà thấy sự quan liêu, thiếu thực tế của bản thân mình.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng chính là cơ hội để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “báo cáo không trung thực”. Khi tình trạng này trong các tổ chức đảng được bài trừ, nhất định sẽ lan tỏa sang các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị và từ đó trở thành phong trào chung của toàn xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã yêu cầu: “Mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác, trung thực, đánh giá mình cho thật khách quan. Tập trung kiểm điểm trên các vấn đề trách nhiệm đối với công việc, đối với đơn vị; phẩm chất cá nhân của mình về các mặt: nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, quan hệ với quần chúng... Thấy rõ ưu điểm để phát huy, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau, "trị bệnh cứu người". Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, tập thể giúp đỡ mà không tiếp thu thì phải xử lý thích đáng”.
                                                           NGUYỄN HỒNG HẢI


Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” - Bản hùng ca bất diệt

(ĐCSVN) - Sáng 18/12, tại Hà Nội, Thành ủy Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” - Bản hùng ca bất diệt (12/1972-12/2017). Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, chủ trì hội thảo.
Tham dự hội thảo có các đồng chí: Võ Văn Phuông, Ủy viên TW Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo TW; đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Phó Trưởng Ban Dân vận TW; Trung tướng Tạ Nhân, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Quân ủy TW; Thiếu tướng Hồ Bá Vinh, quyền Cục trưởng Cục Tuyên huấn Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Trung tướng Lê Huy Vịnh, Ủy viên TW Đảng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân; Dự hội thảo còn có đại diện các ban, bộ, ngành TW; các viện, trường, các tướng lĩnh quân đội, nhân chứng lịch sử đã tham gia lãnh đạo và trực tiếp chiến đấu trong chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Phát biểu khai mạc và đề dẫn hội thảo, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Ngô Thị Thanh Hằng nhấn mạnh: Vào những ngày tháng 12 năm 1972, cách đây 45 năm, với ý chí, niềm tin sắt đá, bản lĩnh, trí tuệ, sáng tạo, cùng với cả nước, quân và dân Thủ đô đã đoàn kết một lòng chiến đấu kiên cường, dũng cảm, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang trên địa bàn đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ. Chiến thắng mang tên “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” đã đánh dấu một mốc son chói lọi, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta, đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng đường không lớn nhất của Đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, góp phần quan trọng vào chiến thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng to lớn này là minh chứng sống động khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt và to lớn của Trung ương Đảng, Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các lực lượng vũ trang Trung ương, các đơn vị, địa phương và Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân Thủ đô chủ động, tích cực chuẩn bị chống địch tập kích đường không. Đây là một kỳ tích tiêu biểu cho tầm cao trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam cũng như truyền thống và hào khí Thăng Long – Hà Nội văn hiến, anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.
Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng đề nghị, với quan điểm khách quan, khoa học, các báo cáo của các nhà khoa học, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy của các đơn vị, các nhân chứng trực tiếp chỉ huy, tham gia chiến đấu trong trận “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” sẽ làm sáng tỏ và có những đóng góp mới về lý luận, thực tiễn.
Làm rõ đường lối và sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1972. Làm sáng tỏ, sâu sắc và toàn diện về sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Chiến công của quân dân Thủ đô đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Chính đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng được phát triển lên tầm cao trí tuệ, trong bối cảnh lịch sử mới, với những nội dung, hình thức mới, đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Hà Nội. Những năm tháng bom đạn khốc liệt, đường lối và nghệ thuật chiến tranh được phát huy mạnh mẽ, vận dụng sát thực với yêu cầu của cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không bảo vệ Thủ đô. Ta đã nắm vững ý đồ chiến lược, chiến thuật trong từng thời kỳ để nghiên cứu đối phó kịp thời, có hiệu quả và hạn chế tổn thất. Ta đã phát động được phong trào toàn dân bắn máy bay địch theo một thế trận hợp lý, phù hợp với từng lực lượng, với tính năng của từng loại vũ khí trang bị; xây dựng được một hệ thống phòng không nhiều tầng, nhiều lớp, đảm bảo đánh địch từ xa đến gần, ở mọi tầm mọi hướng, đảm bảo đội hình cơ bản và dự bị, cân đối về chiến thuật, phát huy được thế tiến công và chi viện liên hoàn.
Làm sâu sắc thêm sự chủ động lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Thủ đô. Trong đó, trọng tâm là các mặt công tác: Vận dụng sáng tạo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, chủ động ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ; Chủ động, khẩn trương, tích cực phối hợp triển khai thực hiện công tác chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, trọng tâm là thực hiện tốt các nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và chiến đấu; Công tác chuẩn bị chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của Quân và dân Thủ đô được đặc biệt chú trọng và triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả.
Nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của Thủ đô, phán đoán được ý đồ chiến lược và thủ đoạn xảo quyệt của địch, hiểu rõ những khó khăn, thuận lợi, những điều kiện cụ thể của Hà Nội trước những nhiệm vụ nặng nề, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng và các ngành của Trung ương đều chăm lo tăng cường sức mạnh cho Đảng bộ và chính quyền của Thủ đô. Trong những thời điểm chiến đấu ác liệt, Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu đều có sự chỉ đạo cụ thể, điều động những lực lượng tinh nhuệ cần thiết để tăng thêm hiệu quả chiến đấu của Thủ đô. Mọi hoạt động chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, giữ vững sản xuất, đảm bảo đời sống nhân dân... đều có sự hướng dẫn và chỉ đạo của Trung ương và các ngành có liên quan của Nhà nước. Đường lối đứng đắn của Đảng cùng với sự quan tâm thường xuyên cùa Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố có tính quyết định dẫn đến thắng lợi.
Thắng lợi vẻ vang của quân dân Hà Nội gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn của Thành ủy, sự chỉ đạo sâu sát của Ủy ban hành chính Thành phố và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp của lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân Hà Nội. Đảng bộ Hà Nội đã phát động toàn dân, toàn quân Thủ đô triệu người như một, đồng tâm nhất trí đứng lên chống giặc, cứu nước, dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Những phong trào quần chúng mang tính cách mạng cao đã nảy nở và phát triển mạnh mẽ như các phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Ba quyết tâm” trong trí thức, “Tay cày, tay súng”, "Tay búa, tay súng" trong dân quân tự vệ...; đã dấy lên khí thế cả Thành phố ra quân, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Sự chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn và các tỉnh, thành anh dũng, kiên cường chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, góp phần quyết định làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung, 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972 nói riêng đã thể hiện sinh động và hiệu quả sự phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa quân và dân Hà Nội với các lực lượng của Bộ Quốc phòng mà điển hình là sự phối hợp chặt chẽ với Quân chủng phòng không – không quân.
Chiến thắng oanh liệt của quân dân Hà Nội không tách rời sự giúp đỡ to lớn, sự đóng góp của các tỉnh và địa phương bạn trên miền Bắc để bảo vệ Thủ đô của cả nước; nhiều địa phương đã chia lửa với thủ đô như Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La, Lạng Sơn… Trong khói lửa của bom đạn Thủ đô Hà Nội cũng nhận được sự cổ vũ, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới và ngay cả ở nước Mỹ và những đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Nhiều người con của cả nước đã chiến đấu bảo vệ Thủ đô, trong đó có nhiều người đã hy sinh anh dũng trên các trận địa Thủ đô. Trong khó khăn ác liệt, nhiều địa phương đã giúp đỡ các cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, bệnh viện, trường học của Hà Nội sơ tán, tiếp tục duy trì và phát triển sản xuất, học tập, công tác; đã đùm bọc hàng chục vạn đồng bào, nhất là các cháu thiếu niên, nhi đồng của Thủ đô ổn định đời sống, tiếp tục học hành.
Thắng lợi của Hà Nội gắn liền với những chiến công của đồng bào chiến sĩ miền Nam với tinh thần “Giặc Mỹ đụng đến Hà Nội, đến miền Bắc một, thì miền Nam đánh trả chúng gấp năm, gấp mười lần”. Có thể nói trong thời khắc ác liệt đó, tinh thần: “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội” đã được thể hiện sinh động nhất. Trong thử thách khắc nghiệt, Hà Nội có thêm sức mạnh từ các phong trào phản đối chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ diễn ra rộng khắp các châu lục; từ phong trào phản chiến của thanh niên và nhân dân Mỹ.
Làm sâu sắc vai trò công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972. Đảng bộ đã nâng cao tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp công nhân, phát huy trí tuệ của đảng viên và quần chúng, ra sức phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ trong suốt thời kì chiến tranh. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng với quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong chiến tranh, tổ chức cơ sở Đảng phát triển hầu khắp các ngành kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, các khu phố, làng xã, đơn vị lực lượng vũ trang. Chất lượng đảng viên được nâng cao. Đảng viên luôn có mặt và nêu những gương sáng trên mặt trận khó khăn, ác liệt. Quan hệ giữa Đảng và quần chúng thường xuyên được củng cố. Nhân dân tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, tự giác, tự nguyện đem sức người, sức của tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo sản xuất, gắn bản thân và gia đình với sự sống còn của Thủ đô. Trong khói lửa chiến tranh, phẩm chất người Hà Nội ngời sáng, tiêu biểu cho “Lương tâm và phẩm giá con người” - như bạn bè quốc tế ca ngợi.
Khẳng định tầm vóc, ý nghĩa lịch sử, những bài học kinh nghiệm quí báu của chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, là cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm giáo dục truyền thống, bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và thế hệ trẻ Thủ đô. Đặc biệt là trong công tác xây dựng thế trận lòng dân; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; trong xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô; xây dựng khu vực phòng thủ của Thủ đô vững mạnh… Từ đó, thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô và đất nước. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Kỷ niệm 45 năm (12/1972 – 12/2017) chiến thắng lịch sử “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, Đảng bộ, Chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Thủ đô nguyện tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH; xây dựng Thủ đô Hà Nội ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XVI của Đảng bộ Thành phố, góp phần quan trọng cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu, mong đợi của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
38 tham luận gửi tới Hội thảo đề cập đến nhiều mảng nội dung về Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” được các nhà khoa học, các nhân chứng lịch sử... chuẩn bị công phu, bảo đảm tính khách quan, khoa học; được minh chứng bởi các số liệu cụ thể, làm rõ tầm vóc, ý nghĩa của chiến thắng, rút ra được những kinh nghiệm hay; đồng thời đề xuất được các chủ trương, giải pháp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô và đất nước hiện nay.
Các báo cáo khoa học đi sâu trên từng khía cạnh của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trên không, đồng thời tập trung khẳng định, làm sáng tỏ về nhãn quan nhạy bén và những quyết sách chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dự báo, tổ chức chuẩn bị mọi mặt, xây dựng thế trận và chỉ đạo tác chiến để đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ với quy mô, cường độ và mức huỷ diệt ghê gớm.
Các nhà khoa học cũng đã phân tích sâu sắc về những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi, rút ra những bài học kinh nghiệm quý về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và Thành ủy Hà Nội về chỉ đạo chiến lược, nghệ thuật tiến hành chiến dịch phòng không nhân dân.
Nhiều bài học kinh nghiệm giá trị thực tiễn vô cùng to lớn, đặc biệt trong xây dựng và bảo vệ Thủ đô hiện nay. Đó là bài học thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong tình thế khó khăn, thách thức cao độ, Thành ủy Hà Nội đã chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù đối với thủ đô Hà Nội. Bài học về xây dựng các chi, đảng bộ cơ sở thực sự phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, kiên quyết vượt qua khó khăn, thử thách để phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao./. 
                                                                                    Tin: Mạnh Hùng


Tuesday, December 12, 2017

Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ trẻ (*)

QĐND - Sáng 11-12, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Hà Nội đã khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017-2022. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự và phát biểu chỉ đạo. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Trong không khí náo nức toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2017, chuẩn bị đón năm mới 2018, hôm nay, tôi rất vui mừng tới dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhiệm kỳ 2017-2022 - một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của tuổi trẻ và đất nước. Trước hết, tôi xin gửi đến các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể cán bộ, đoàn viên, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng cả nước lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu 
 tại đại hội. 
Chúng ta đều đã biết, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, thanh niên nước ta, hết thế hệ này đến thế hệ khác, đã luôn nêu cao tinh thần yêu nước, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, sẵn sàng phấn đấu, dấn thân vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Từ khi có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, rèn luyện, tuổi trẻ Việt Nam càng phát huy cao độ truyền thống anh hùng, có nhiều đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm tốt nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp, giáo dục, vận động thanh niên tham gia các công việc chung của đất nước.
Những năm gần đây, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều tiến bộ trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi đã đạt được kết quả toàn diện, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, thanh thiếu nhi. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ được tăng cường. Nội dung, phương thức giáo dục không ngừng được đổi mới. Các phong trào "Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp" tạo được dấu ấn tốt trong đời sống xã hội, vừa tạo môi trường thực tiễn rộng lớn, phong phú, thiết thực để giáo dục, rèn luyện thanh niên; vừa góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Đoàn đã có nhiều cố gắng trong định hướng tư tưởng cho thanh niên trước những vấn đề mới, phức tạp; tích cực tham gia giải quyết những khó khăn đột xuất nảy sinh, như khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn; hỗ trợ và tạo điều kiện tốt cho thanh niên học tập, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên. Tổ chức Đoàn ngày càng được củng cố và phát triển. Mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên được mở rộng. Công tác phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và chăm sóc thiếu niên, nhi đồng được quan tâm. Ý thức chính trị của đoàn viên từng bước được nâng lên; đội ngũ cán bộ Đoàn được chuẩn hóa, trở thành nguồn cán bộ kế cận tin cậy của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp. Từ thực tiễn hoạt động phong phú và sôi nổi của tuổi trẻ, trên khắp các lĩnh vực đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến, thanh niên đi đầu và thành công trong học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh và hội nhập, góp phần tạo dựng hình ảnh đẹp về lớp thanh niên Việt Nam thời kỳ mới, khẳng định vai trò của tổ chức Đoàn trong hệ thống chính trị, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Thành tích và sự lớn mạnh của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và thế hệ trẻ Việt Nam là rất to lớn và đáng tự hào. Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương và khen ngợi những nỗ lực, cố gắng của phong trào thanh thiếu nhi và hoạt động của các cấp bộ đoàn trong cả nước.
Bên cạnh những thành tích, tiến bộ, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ qua cũng còn những hạn chế, bất cập, như trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã chỉ ra. Tôi chỉ xin lưu ý, nhấn mạnh thêm một vài điểm đặc biệt quan trọng là, hiện nay xã hội không khỏi băn khoăn trước thực trạng có một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; thậm chí có một số ít thanh niên bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động, đã có những việc làm đi ngược lại bản chất, truyền thống vẻ vang của Đoàn và trái với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên diễn biến phức tạp. Trong khi đó, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh còn chậm và lúng túng trong nghiên cứu, đề xuất giải pháp để khắc phục, giải quyết các vấn đề đặt ra, chưa kịp thời có ý kiến và tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc, tiêu cực, mặt trái tác động đến thanh thiếu nhi. Công tác giáo dục của Đoàn tuy rộng, nhưng chưa sâu, một số hoạt động còn nặng về "bề nổi", dàn trải, hình thức. Một số phong trào mới chỉ thu hút đoàn viên tích cực, thanh niên tiên tiến tham gia, kết quả thiếu tính bền vững. Chất lượng tổ chức Đoàn cơ sở trên địa bàn dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn, khu công nghiệp còn yếu. Một bộ phận cán bộ Đoàn chưa bắt nhịp kịp thời với những thay đổi nhanh chóng trong nhận thức, đời sống của thanh niên. Đây là những vấn đề đáng lo ngại, trong đó có trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, đặc biệt là trách nhiệm của tổ chức Đoàn.
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực, bên cạnh mặt thuận lợi là cơ bản, cũng có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Nhân loại đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàng loạt những đột phá khoa học và tiến bộ công nghệ, dự báo sẽ tạo những biến chuyển sâu sắc và toàn diện trong đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bối cảnh trong nước và quốc tế vừa tạo ra thời cơ thuận lợi, vừa mang đến những khó khăn, thách thức đối với thanh niên và công tác Đoàn.
Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ trẻ. Với đặc tính trẻ trung, sôi nổi, năng động, sáng tạo, sục sôi nhiệt huyết, thanh niên Việt Nam đã và đang chứng tỏ vai trò là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, do chưa được từng trải, thiếu kinh nghiệm sống, thanh niên cũng là đối tượng thường bị các thế lực xấu, thù địch tiếp cận, lôi kéo, kích động, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Mục tiêu và các nhiệm vụ đã xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhất là mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đòi hỏi phong trào thanh niên và tổ chức Đoàn phải không ngừng đổi mới và nỗ lực phấn đấu vươn lên, nâng cao chất lượng tổ chức, phương thức và hiệu quả hoạt động, phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa X trình đại hội lần này đã quán triệt nghiêm túc những tư tưởng, quan điểm của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đặc biệt là nội dung, giải pháp và các nhiệm vụ trọng tâm. Tôi đề nghị các đồng chí tập trung thảo luận để đánh giá đúng tình hình, tổng kết sâu sắc thực tiễn, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, có hiệu quả cao cho nhiệm kỳ 2017-2022. Tôi nhấn mạnh và gợi mở thêm một số vấn đề để đại hội thảo luận, xem xét, quyết định:
Một là, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.
Giáo dục lý tưởng cách mạng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ vừa là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt, thường xuyên, vừa là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng. Đầu tư cho giáo dục, trong đó có giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai của đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, của các cấp, các ngành, đoàn thể, gia đình và toàn xã hội, trong đó Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng. Đoàn cần tập hợp, giáo dục thanh niên, khơi dậy và thúc đẩy trong mỗi bạn trẻ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng cách mạng, kiên định niềm tin vào chế độ, tiếp nối xứng đáng truyền thống cha anh. Câu nói bất hủ của Anh hùng Lý Tự Trọng: "Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác", đã trở thành tuyên ngôn, lẽ sống của tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Ngày nay, lý tưởng cách mạng của thanh niên là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Thanh niên Việt Nam phải biết yêu thương, quý trọng con người, sống có văn hóa, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, sẻ chia, nhân ái; có tinh thần dũng cảm bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, cản trở sự phát triển; cần cù, sáng tạo trong lao động, lập nghiệp; dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Muốn làm tốt được nhiệm vụ trên, Đoàn phải coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập, nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn công tác và đời sống thanh niên. Đặc biệt, phải kiên trì, sáng tạo và thực chất trong việc tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trước hết, phải đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ Đoàn chủ chốt các cấp, tự giác học trước, làm trước, nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu, rèn luyện tác phong, lề lối công tác. Đoàn phải thường xuyên tự đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục. Coi trọng giáo dục bằng hành động, qua thực tiễn phong trào, lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi thanh niên. Đề cao và phát huy vai trò tự rèn luyện, tự tu dưỡng, khả năng tự hoàn thiện mình của thanh thiếu nhi dưới sự định hướng, hỗ trợ tốt nhất của tổ chức đoàn, hội, đội. Đặc biệt, Đoàn cần định hướng, giáo dục thanh niên giữ vững bản lĩnh cách mạng, có ý thức nhạy bén chính trị, tích cực đấu tranh ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, tăng sức đề kháng cho thanh niên trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là trên mạng xã hội; tránh tình trạng "nhạt Đảng", "khô Đoàn", "xa rời chính trị".
Hai là, chăm lo củng cố, xây dựng tổ chức đoàn thực sự vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động.
Xây dựng Đoàn là xây dựng đội quân xung kích của cách mạng, lực lượng nòng cốt của tuổi trẻ, xây dựng đội dự bị tin cậy của Đảng. Vì vậy, chúng ta cần hết sức coi trọng công tác xây dựng tổ chức đoàn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế cận của Đảng, thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là tuổi trẻ, cán bộ đoàn phải có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, không ngừng tu dưỡng bản thân về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác; thực sự là người bạn gần gũi của thanh niên, không kiêu căng, tự mãn, xa rời thanh niên, xa rời thực tiễn; không để bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cán bộ đoàn phải là người tiên phong, có tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, năng động và sáng tạo. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải thực sự là tấm gương trong sáng, là môi trường thử thách, nghĩa tình để cán bộ đoàn rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, chuyên môn, nghiệp vụ, tạo nguồn cán bộ trẻ có chất lượng cho Đảng.
     Tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và hệ thống chính trị là trách nhiệm và quyền lợi chính trị của đoàn viên, thanh niên và tổ chức đoàn, là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của các cấp bộ đoàn. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải thường xuyên bổ sung nguồn sinh lực trẻ cho Đảng bằng đội ngũ đảng viên kết nạp từ những đoàn viên ưu tú và cán bộ trẻ có chất lượng giới thiệu cho Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Tích cực đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng. Tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; góp ý với đảng viên, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ với hình thức phù hợp, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII của Đảng.

Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần nghiên cứu đổi mới mô hình và tổ chức hoạt động, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Đoàn tại địa bàn dân cư và các khu vực đặc thù. Đồng thời, chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, nhất là chất lượng tư tưởng chính trị và tính tiên phong, bản lĩnh của thanh niên. Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình, để phát huy sức mạnh tuổi trẻ trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải làm tốt vai trò nòng cốt chính trị trong các tổ chức thanh niên Việt Nam; làm tốt hơn nữa công tác phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và tích cực tham gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng, xác định đây là trách nhiệm to lớn của tổ chức đoàn đối với lớp măng non của đất nước.
Ba là, đổi mới và nâng cao hiệu quả các phong trào, chương trình hành động của Đoàn, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên, khẳng định vai trò của Đoàn trong đồng hành, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới mang đến cả thời cơ và thách thức đối với thanh niên. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng cần tham gia xây dựng cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức để thanh niên phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho mình và cho đất nước. Triển khai rộng khắp và hiệu quả các phong trào hành động cách mạng, phát huy tinh thần tình nguyện, sáng tạo, xung kích của tuổi trẻ cả nước. Với tinh thần "đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên", phong trào của Đoàn cần đi sâu vào các mặt trận quan trọng như: Học tập, nghiên cứu khoa học; lao động, sản xuất kinh doanh; bảo vệ Tổ quốc; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an toàn giao thông, an sinh xã hội. Khắc phục các biểu hiện hình thức, dàn trải; bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả, lan tỏa, sát hợp với thực tế.
Quan tâm chăm lo, hỗ trợ các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp, thiết thân của thanh niên. Đặc biệt, quan tâm phát triển nguồn nhân lực trẻ, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; định hướng cho thanh niên học tập và tự học tập suốt đời, phấn đấu và rèn luyện mọi mặt, vươn lên làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Khơi dậy khát vọng khởi nghiệp và tổ chức các hoạt động giúp thanh niên khởi nghiệp thành công; khơi thông nguồn lực, trợ sức để thanh niên đi đầu làm kinh tế, làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và đất nước. Giúp thanh niên tự trang bị cho bản thân về kiến thức, kỹ năng, đáp ứng những đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quan tâm nâng cao sức khỏe thể chất, trọng tâm là tầm vóc và thể trạng cho thanh niên, nhất là thanh niên miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số. Đoàn phải thường xuyên cổ vũ, động viên, khuyến khích và phát huy lớp thanh niên tiên tiến; đồng thời chú ý quan tâm chăm lo cho những thanh niên yếu thế vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của đại hội lần này là bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa mới. Tôi đề nghị các đồng chí đại biểu đại hội hãy sáng suốt lựa chọn những đồng chí tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực công tác tốt, uy tín cao trong thanh niên, bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa XI để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ mới, đưa phong trào thanh niên nước ta tiếp tục phát triển, đạt những thành tích to lớn hơn nữa.
Nhân dịp này, tôi cũng đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp cần quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy vai trò, tiềm năng của thế hệ trẻ. Tập trung thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết số 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Chỉ thị số 42 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI. Chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn là một căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng lãnh đạo đoàn thể của cấp ủy đảng cùng cấp. Chúng ta phải tin tưởng ở thanh niên, mạnh dạn giao nhiệm vụ cho thanh niên, tạo điều kiện thuận lợi và cổ vũ thanh niên học tập, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành, đóng góp nhiều nhất cho đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một dấu mốc quan trọng trong quá trình hoạt động, phát triển của phong trào thanh niên và Đoàn Thanh niên. Tôi tin tưởng và kỳ vọng, sau đại hội này, phong trào thanh thiếu nhi và Đoàn Thanh niên nước ta sẽ có bước phát triển mới, mạnh mẽ hơn nữa, sáng tạo hơn nữa, đóng góp xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.
Bác Hồ thường nói: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Với nhiệt huyết tràn đầy, với nghị lực và ý chí vươn lên mạnh mẽ, lại đang được sống trong một môi trường hòa bình, đổi mới, phát triển của đất nước, tuổi trẻ Việt Nam nhất định sẽ nêu cao tinh thần tiên phong, bản lĩnh, đoàn kết, sáng tạo, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân giữ vững và phát huy các thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam muôn vàn yêu quý của chúng ta ngày càng giàu đẹp, hùng cường. Chúc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh mãi mãi xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích của cách mạng; thanh niên là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà! Nhất định các đồng chí phải làm chủ nước nhà một cách xứng đáng nhất!

Với tất cả niềm tin yêu và hy vọng, tôi xin chúc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành công tốt đẹp. Chúc các đồng chí đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc và thắng lợi./.
Phát biểu của Tổng Bí thư NGUYỄN PHÚ TRỌNG
(*) Đầu đề của Báo Quân đội nhân dân