(TG) - Vấn đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng và xã hội đã có quá trình lịch sử liên
tục, lâu dài. Tại Lễ truy điệu Người, trong Điếu văn Chủ tịch Hồ Chí Minh do
đồng chí Lê Duẩn đọc, đã khẳng định “suốt đời học tập đạo đức, tác phong của
Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn
luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là
đồng chí, là học trò của Hồ Chủ tịch”; và những năm sau đó, khẩu hiệu “Sống,
chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” với yêu cầu học tập và
làm theo gương Bác đã được toàn Đảng, toàn dân nêu cao thực hiện.
Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung
ương Đảng khóa IX ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về “Đẩy mạnh nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”, có xác
định mục đích: “Tạo ra phong trào rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo
gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống”.
Năm 2005, Bộ Chính trị khóa IX đã quyết định làm điểm
việc tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Trên cơ sở kết quả việc làm điểm, ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị
khóa X ban hành Chỉ thị 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Đại hội Đảng lần thứ XI yêu cầu đưa việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên,
lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp
nhân dân. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, ngày 14-5-2011, Bộ Chính trị đã ban
hành Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau 5 năm thực hiện, Chỉ thị số 03-CT/TW đã đạt
được kết quả bước đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, có những đóng góp đáng khích lệ vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện các nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên,
chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn
vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là
công việc thường xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức
chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ”. Mục đích, yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được xác định cao hơn, phạm vi
rộng hơn so với Chỉ thị 06-CT/TW và Chỉ thị 03-CT/TW. Trong đó, nhấn mạnh,
chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là về tư tưởng
chính trị và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; góp
phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức.
Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng
định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, mà còn nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức.
Đây cũng là lần đầu tiên “phong cách Hồ Chí Minh” được
nhấn mạnh chính thức trong văn kiện Đại hội Đảng. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị
khóa XII đã ban hành Chỉ thị 05 về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm
theo phong cách, tác phong Hồ Chí Minh về: dân chủ, nêu gương, quần chúng, khoa
học, nói đi đôi với làm.., với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới
phong cách, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu các cấp, các ngành.
1. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Nghị quyết Đại hội IX, hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh gồm các nội dung chủ yếu sau: tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tư tưởng về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; tư
tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư tưởng về
phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư
tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét qua
những nội dung chủ yếu sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải
phóng và phát triển của dân tộc
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; là sản phẩm của dân tộc và thời
đại, trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tư tưởng của Người
không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài người,
trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của
thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong suốt chặng đường
hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ
nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người; độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì lợi ích con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ
đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, thực hiện có hiệu quả những
nhiệm vụ đối với mỗi thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá
của dân tộc Việt Nam. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ trung thành với
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng những nguyên lý
đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt
ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc
"lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý
luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực
tiễn sinh động".
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh ở chỗ đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn. Ngày nay, tư tưởng đó, bao gồm một hệ thống những quan
điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối với thế
giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa
các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội... vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh
mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng
ta, vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được kiểm nghiệm qua thực tiễn cách
mạng, ngày càng tỏa sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu, hàng
triệu con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của
thế giới
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời
đại. C. Mác đã khái quát: "Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người
vĩ đại".
Ngay trong thập niên 1920, với quá trình hình thành về
cơ bản tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lý
luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đó là: giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Người đã có những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản. Đồng thời, Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của
độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự
thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước
thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ
thể, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, góp
phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc xác
định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc... có giá trị to lớn về
mặt lý luận và đang trở thành hiện thực trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế
ngày nay.
Thứ hai, tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài
người. Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc mình, đã chỉ ra một con đường cách
mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là phương pháp "đại đoàn kết",
"đại hòa hợp" để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các
nước thuộc địa và phụ thuộc.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn
thể hiện ở chỗ, ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự biến
chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào
phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động không mệt mỏi cho phong trào cách mạng
thế giới. Người kiên quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả
năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
đối với cách mạng vô sản; khẳng định bài học chung của các dân tộc. Người nhấn
mạnh, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh
đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước
hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận
thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước
hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng
lợi.
Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ
mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân
loại.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc đấu tranh
vì những mục tiêu cao cả. Tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú
của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc trên thế giới tham gia
cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Khóa
họp Đại hội đồng UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã công nhận Người là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
2. Những nội dung chủ yếu của đạo đức Hồ Chí Minh
Về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi
người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của
người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người
viết: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang".
Bác Hồ với Bộ đội PK - KQ
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và
phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối.
Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân" .
Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là
chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Theo Người,
có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh
thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ", lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải
"là đạo đức, là văn minh", "Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân".
Về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt
Nam, quan điểm đạo đức Hồ
Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao
gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải "Trung với nước,
hiếu với dân".
Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân
tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển
trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân
là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn
với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho
đất nước "sánh vai với các cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân
là chủ đất nước, cho nên "trung với nước" là trung với dân, trung
thành với lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn đều của dân";
"bao nhiêu lợi ích đều vì dân"...
Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải
là "đầy tớ trung thành của dân"; phải "tận trung với nước, tận
hiếu với dân".
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với
dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững
dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm
cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Hai là, với mọi người phải "Yêu thương con người, sống
có nghĩa, có tình".
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, yêu thương con
người xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể
hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người
lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu thương con người là phải
làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành"; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con
người.
Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với
mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con
người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng
tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê
bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, với mình phải thực sự "Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư".
Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ "với
tự mình". Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần
có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta".
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết
kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái
nhỏ; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình
thức...".
Liêm là "luôn tôn trọng giữ gìn của công và của
dân", "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân
dân"; "không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không tham tâng bốc mình...".
Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá,
lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết
làm cho kỳ được, "việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh".
Chí công vô tư là "khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau", "lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ".
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và
với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược
lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực
hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân
loại, người cách mạng phải có "tinh thần quốc tế trong sáng".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế
trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân
loại vì Người không chỉ là "người Việt Nam nhất" như cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là "nhà văn hóa lớn của thế giới",
"chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế".
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết
là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình đoàn kết quốc tế giữa
những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, "bốn phương vô sản
đều là anh em"; là đoàn kết với các dân tộc vì hòa bình, công lý và tiến
bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ
nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Về những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo
đức, theo Hồ Chí Minh, thể hiện ở ba điểm sau:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi
trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước
quần chúng. Người nói: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước".
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu
xa, không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống,
muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận
thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn
xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng
tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể
các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm
xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý
thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác
thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm,
phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã
hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái
xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu dương người tốt, việc tốt.
Người đã phát động cuộc thi đua "ba xây, ba chống", viết sách
"người tốt, việc tốt" để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: "Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong" và nhấn mạnh "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân".
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự
rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì
ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong
mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn
hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái
xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt
động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong
sinh hoạt cộng đồng.
3. Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh
Từ Đại hội V (1981) trở về trước, Đảng ta thường dùng
khái niệm “tác phong” để nói về “tác phong Hồ Chủ tịch”. Hai chữ “tác phong” có
hàm nghĩa hơi hẹp, mới chỉ nói lên được một mặt là “phong cách làm việc, phong
cách công tác”, tuy ai cũng hiểu rằng ngoài công tác, phong cách của mỗi người
còn được biểu hiện ra ở nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Từ Đại hội VI
(1986), hai chữ “tác phong” được thay bằng khái niệm “phong cách” trong cụm từ
“tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để có thể nói về những đặc trưng đa
dạng, phong phú khác trong hoạt động của Người.
Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng
giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân cách trí tuệ lỗi lạc,
đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh, với tư cách là một vĩ nhân, một nhà văn hóa
kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách
mạng, vừa cao cả vừa thiết thực.
Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh
vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị
khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, bao gồm một số nội dung chính là: phong cách tư
duy, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách
ứng xử và phong cách sinh hoạt.
Về phong cách tư duy
Một là, phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại.
Xuất phát từ lòng yêu nước và mục đích tìm đường cứu
nước, trong quá trình hoạt động của mình Hồ Chí Minh đã hình thành trong mình
một phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện
đại. Không tiếp thu một cách thụ động, không dừng lại ở sự vật, hiện
tượng bề ngoài, Nguyễn Ái Quốc có thói quen đi sâu phân tích, so sánh, chắt
lọc, lựa chọn, tổng hợp, rút ra những phán đoán, đi tới những kết luận mới, đề
ra những luận điểm mới, kế thừa, vừa phát triển sáng tạo để tiếp tục vượt lên
phía trước. Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc đã bắt kịp nhịp sống và sự phát triển của
thời đại, đã hình thành được một tư duy đúng đắn, khoa học và cách mạng, để có
thể lựa chọn đúng đường đi cho dân tộc và dự kiến được những bước phát triển
mới của lịch sử.
Hai là, phong các tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Đó là
phong cách tư duy không giáo điều, rập khuôn, không vay mượn nguyên xi của
người khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy
đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù hợp với nhu
cầu và điều kiện thực tiễn.
Ba là, phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.
Thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy này ở Hồ Chí Minh là luôn biết
xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, những “lẽ
phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của
thực tiễn. Để đàm phán, thuyết phục đối phương đi tới đồng thuận,
Người thường lập luận trên cơ sở nguyên tắc về tính đồng nhất của
nguyên lý.Người viết: Quyền độc lập, tự do ở nước nào cũng vậy, đều do
xương máu của những nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà xây dựng nên.
Về phong cách làm việc
Trong tác phẩm lối “Sửa đổi lối làm
việc” Hồ Chí Minh phê phán nặng lề lối làm việc đủng đỉnh, chậm chạp,
tự do, tùy tiện, đại khái, sự vụ, theo đường mòn, điệu sáo, lười suy nghĩ, ngại
đổi mới, thích phô trương, hoành tráng về hình thức, nhưng nghèo nàn, sơ sài về
nội dung của nền sản xuất nhỏ… Người nêu gương cho chúng ta về phong cách công
tác mới: lấy lợi ích và hiệu quả thiết thực làm chuẩn mực cao nhất để đánh giá
tác phong cán bộ và chất lượng công việc. Phong cách làm việc Hồ Chí Minh thể
hiện trong những điểm chính sau:
Một là, phong cách làm việc khoa học. Hồ Chí Minh yêu cầu làm
việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm
chắc thực chất tình hình, “Đảng có hiểu rõ tình hình, thì đặt chính sách mới
đúng”.
Hai là, phong cách làm việc có kế hoạch. Hồ Chí Minh đòi hỏi
làm việc gì cũng phải có chương trình, kế hoạch, từ lớn đến nhỏ, từ dài hạn,
trung hạn đến ngắn hạn, từ tháng, tuần đến ngày, giờ nào việc nấy. Vì làm việc
có kế hoạch, dù bận trăm công, nghìn việc của Đảng và Nhà nước, Người lúc nào
cũng ung dung, tự tại, vẫn có thời giờ học tập, đọc sách, xem văn nghệ, đi
xuống địa phương, đi thăm danh lam, thắng cảnh,… Người dạy, trong việc đặt kế
hoạch “không nên tham lam, phải thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao”, “chớ làm
kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu, nhưng không thực hiện được”.
Ba là, phong cách làm việc đúng giờ. Hồ Chí Minh quý thời
gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Người
thường không để ai phải đợi mình, chủ động đến trước nếu có thể. Năm 1953, tại
Việt Bắc, Người vượt qua mưa gió để đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí
thức theo lịch hẹn. Người chủ động đến thăm đoàn cán bộ Hà Nội dịp tết năm
1956, khi đoàn đang chuẩn bị lên Phủ Chủ tịch chúc tết Bác thì gặp mưa, lúng
túng chưa xử lý được...
Bốn là, phong cách đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ,
đường mòn. Đó là một phong cách không cố chấp, bảo thủ, luôn đổi mới. Người
nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ
thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Cuộc đời Người là một tấm
gương tuyệt vời về đổi mới, có sức động viên, khích lệ, gởi mở sự đổi mới, sáng
tạo cho mỗi chúng ta.
Về phong cách lãnh đạo
Một là, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phong cách dân chủ Hồ Chí Minh
được biểu hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ. Từ soạn thảo “Tuyên ngôn
độc lập” đến viết một bài báo,…Người đều tham khảo ý kiến của Bộ Chính
trị, hay những người xung quanh. Người tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết
định. Mọi vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học-kỹ
thuật,…Người đều dựa vào đội ngũ trí thức, chuyên gia trong bộ máy của Đảng và
Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải được cân nhắc, lựa chọn thận
trọng, để sau khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung.
Hai là, đi đúng đường lối quần chúng,“lắng nghe ý kiến của
đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”. Người yêu cầu và
luôn thực hiện người lãnh đạo phải tôn trọng nguyên tắc dân chủ, từ dân chủ
trong Đảng đến dân chủ trong các cơ quan đại biểu của dân, thực hiện đường lối
quần chúng. Người năng đi xuống cơ sở, để lắng nghe ý kiến của cấp dưới và của
quần chúng, chứ không phải để huấn thị cấp dưới. Theo Người, phải biết động
viên, khuyến khích “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”,
tức là phải làm cho cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ
nghe sự thật.
Ba là, phải tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt. Theo Hồ
Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt để nghị quyết
đi vào cuộc sống; điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, kiểm soát. Muốn tốt,
“phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm
tra, kiểm soát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ, tệ quan
liêu còn “nồng”.
Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tác
phong kiểm tra sâu sát. Theo tài liệu thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ
tính trong vòng 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (1955-1965), không
quản tuổi cao, công việc bề bộn, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các
địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội,…từ miền núi đến
hải đảo, để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, để xem xét tình hình, kiểm tra công
việc. Tính ra mỗi năm, có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng
6 lần lãnh tụ gặp gỡ quần chúng.
Ngoài ra, hằng ngày Người đều đọc báo, đọc thư của
nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần
giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có
trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
Bốn là, về phong cách nêu gương, Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói
chung thì các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người đòi hỏi, mỗi
cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc,
mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Nói đi đôi với làm là
một nội dung đạo đức truyền thống của dân tộc. Kế thừa truyền thống đạo đức của
dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu thành một nội dung của tư cách người cách mạng. Nói
đi đôi với làm đối lập với nói mà không làm của những người hứa suông, hoặc
“nói một đàng làm một nẻo” của những kẻ cơ hội.
Về phong cách diễn đạt
Một là, cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực. Mục
đích của nói và viết Hồ Chí Minh cốt làm cho lý luận trở nên gần gũi, dễ hiểu
với tất cả mọi người. Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của hàng chục triệu
người lao động, làm sao để họ hiểu được, dám vùng lên đấu tranh giải phóng...
Hồ Chí Minh hay dùng cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực.
Hai là, diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và
sinh động, có lượng thông tin cao. Bác Hồ thường viết ngắn, có khi
rất ngắn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, chỉ 9 chữ mà khái quát
được cả ba giai đoạn đầy biến động của đất nước. Nhiều câu đúc kết lại như châm
ngôn: “Nước lấy dân làm gốc”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, v.v..
Chính vì vậy, những tư tưởng lớn của Người trở nên dễ thuộc, dễ nhớ, nhanh
chóng đi vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động. Đó là điều ước muốn của mọi
nhà tư tưởng, nhà lý luận chân chính mà không phải ai cũng đạt tới được.
Ba là, sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn
với những hình ảnh, ví von, so sánh cụ thể. Khi nói, khi viết Bác
Hồ thường kết hợp với kể chuyện, đan xen những câu thơ, câu ca dao có vần điệu,
làm cho bài nói hay bài viết trở nên sinh động, gần gũi với lối cảm, lối nghĩ
của quần chúng. Người dùng hình ảnh “con đỉa hai vòi” để nói về bản chất của
chủ nghĩa đế quốc; ví “lý luận như cái tên, thực hành như cái đích” để bắn; “có
kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”; người đọc
nhiều lý luận mà không biết đem thực hành, vận dụng chỉ là “cái hòm đựng sách”,
v.v..
Bốn là, phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà
đa dạng. Trên cơ sở thống nhất về mục đích nói và viết, phong cách diễn đạt Hồ
Chí Minh thể hiện rất phong phú, phù hợp với nội dung được trình bày. Đó là sự
đanh thép với những số liệu rõ ràng khi tố cáo; sự sôi nổi trong tranh luận;
thiết tha trong kêu gọi; ân cần trong giảng giải; sáng sủa trong thuyết phục,…
Phong cách diễn đạt như trên của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên tính khoa học và
hiện đại và đặc biệt có hiệu quả rất cao. Đó là bài học quý giá đối với tất cả
mọi người, nhất là những người trực tiếp làm công tác thông tin, tuyên truyền,
giáo dục lý luận cho đại chúng, để thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Mỗi
tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tuởng và lòng ước ao của
quần chúng”.
Về phong cách ứng xử
Một là, khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp. Trong
các cuộc tiếp xúc, Người thường khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người
khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người chung quanh.
Hai là, chân tình, nồng hậu, tự nhiên. Khi gặp gỡ mọi người,
với những cử chỉ thân mật, lời hỏi thăm chân tình, hay một câu nói đùa, Người
đã tạo ra một bầu không khí thân mật, thoải mái, thân thiết như trong một gia
đình. Sự ân cần, nồng hậu, xóa bỏ mọi nghi thức, đi thẳng đến trái tim con
người bằng tình cảm chân thực, tự nhiên, đó là nét nổi bật trong phong cách ứng
xử của những nhà văn hóa lớn của mọi thời đại.
Ba là, linh hoạt, chủ động, biến hóa. Ứng xử văn hóa Hồ Chí
Minh đạt tới sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm nồng hậu với lý trí sáng suốt,
linh hoạt, uyển chuyển, sẵn sàng vì cái lớn mà châm chước cái nhỏ.
Bốn là, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách. Trong văn
hóa giao tiếp, ứng xử với mọi người, Hồ Chí Minh, luôn xuất hiện với thái độ
vui vẻ cùng với sự hóm hỉnh, năng khiếu hài hước, đã xóa đi mọi khoảng cách,
những nghi thức trịnh trọng không cần thiết, tạo không khí chan hòa, gần gũi
giữa lãnh tụ với quần chúng, giữa những người bạn... Điều đó lý giải vì sao,
mỗi khi Bác Hồ xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi
không dứt.
Về phong cách sinh hoạt
Một là, phong cách sống cần kiệm, liêm chính. Cả
trong lời nói và việc làm Hồ Chí Minh luôn luôn tự mình thực hiện cần kiệm,
liêm chính. Sinh ra tại một vùng quê nghèo, một đất nước nghèo, ra đi làm cách
mạng trong tư cách một người lao động, phải tự thân vận động để sống và hoạt
động, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành cho mình một lối sống, một cách sống không
thể khác, đó là rất mực cần cù, giản dị, tiết kiệm.
Hai là, phong cách sống hài hòa, nhuần nhuyễn giữa văn hóa
Đông – Tây. Đó là phong cách sống vừa thấm nhuần văn hóa Nho-Phật-Lão, vừa chịu
ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Âu-Mỹ nhưng luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về
văn hóa Việt Nam.
Ba là, tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên.
Trong sinh hoạt đời thường, Hồ Chí Minh theo triết lý “tôn tự nhiên” của Lão
tử. Những người được sống bên Bác đều cho biết: chưa bao giờ thấy Bác phàn nàn
về thời tiết, mưa không bực, nắng không than, dung mạo lúc nào cũng vui vẻ,
trán không nhăn, mày không nhíu, mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, cứ
thuận theo tự nhiên mà sống.
Trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII,
đặc biệt là yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức, việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết, góp phần làm cho tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Người thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh/.
PGS. TS. Nguyễn Thị
Phương Hoa
No comments:
Post a Comment