Sunday, October 16, 2022

 

VAI TRÒ CỦA SƯ ĐOÀN 7

TRONG CHIẾN DỊCH CHỐT CHẶN TÀU Ô NĂM 1972

Đại tá Nguyễn Duy Đoàn

Sư đoàn trưởng, Sư đoàn 7

Bước vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, tình thế chiến trường miền Nam diễn biến thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Do đó, Bộ Chính trị ra nghị quyết: “Mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng miền Đông Nam Bộ, Trị Thiên, Tây Nguyên, hình thành một cuộc tiến công toàn miền để tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng”. Trong đó, miền Đông Nam Bộ được xác định là hướng rất quan trọng. Trên hướng này, ta mở chiến dịch tiến công mang tên Người anh hùng áo vải “Nguyễn Huệ”, nhằm giải phóng một phần các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, làm nơi đứng chân của trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạo bàn đạp từng bước uy hiếp, tiến đánh địch ở trung tâm Sài Gòn từ hướng Bắc và Tây Bắc.

Chiến dịch Nguyễn Huệ diễn ra từ ngày 01/4/1972 đến tháng 01/1973. Địa bàn chiến dịch gồm 4 tỉnh: Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương với các trục đường chiến lược 22 và 13. Ta lấy đường 13 làm hướng tiến công chủ yếu, đường 22 là hướng tiến công thứ yếu. Chiến dịch Nguyễn Huệ là chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô cấp quân đoàn đầu tiên ở miền Nam, tiến công vào tuyến phòng ngự, phòng thủ cơ bản, quan trọng của địch. Đây cũng là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng đầu tiên của Quân đội ta ở Nam Bộ. Để tạo được thế cài xen, chia cắt nhỏ địch ra để tiêu diệt, trên hướng chủ yếu của Chiến dịch ở đường 13: Sư đoàn 5 đánh trận then chốt mở đầu chiến dịch, tiến công, giải phóng Lộc Ninh; Sư đoàn 9 tiến công đánh chiếm thị xã Bình Long; Sư đoàn 7 được Bộ Chỉ huy Chiến dịch giao nhiệm vụ: “Đưa lực lượng luồn sâu đánh chiếm các mục tiêu và chốt chặn trên đường 13 (đoạn Nam và Bắc thị xã Bình Long ngày nay). Trong Chiến dịch này, cũng là lần đầu tiên Bộ Tư lệnh Miền sử dụng cấp sư đoàn làm nhiệm vụ chốt chặn kết hợp đánh vận động, sau đó chuyển sang chiến đấu phòng ngự khu vực đã chia cắt địch trên đường 13, tạo điều kiện cho Chiến dịch tiến công mục tiêu then chốt, giữ vững vùng mới được giải phóng.

Vào thời gian này, quân ngụy Sài Gòn đã rút khỏi tất cả các vị trí đóng quân, điểm chốt ở Campuchia; chúng co về phòng thủ trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Địch lấy đường 22 - Bắc Tây Ninh làm hướng phòng ngự chủ yếu. Trên hướng đường 13, chúng bố trí lực lượng ít hơn. Phía Bắc thị xã Bình Long có Chiến đoàn 7 thuộc Sư đoàn 5 ở Phủ Lố; Chiến đoàn 52 của Sư đoàn 18 ở căn cứ Hồng Tâm (ngã ba đường 13 và 17); Chiến đoàn 9 (thiếu) thuộc Sư đoàn 5 và trung đoàn thiết giáp ở Chi khu Lộc Ninh. Lực lượng bảo an dân vệ đóng tại Tiểu khu Bình Long và Chi khu An Lộc. Phía Nam thị xã Bình Long, có 3 tiểu đoàn biệt động, 1 tiểu đoàn biên phòng và 5 đại đội bảo an ở khu vực Chi khu Chơn Thành, Tống Lê Chân, Minh Hòa, Minh Thạnh.

Về địa bàn tác chiến, Quốc lộ 13 là đường giao thông huyết mạch chạy từ cửa Bắc Sài Gòn qua các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, kéo dài sang Campuchia, lại gần sát Chiến khu D nên địch lập thành hệ thống phòng thủ khá mạnh. Đoạn từ Lai Khê lên thị xã Bình Long, địa hình tương đối bằng phẳng, trong đó đoạn từ ngã ba Xóm Ruộng tới Nam Tân Khai là khu vực có giá trị chiến thuật, chiến dịch. Bởi thế, cuối tháng 01 năm 1972, khi giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 7, “…Luồn vào đánh chặn, cắt giao thông ở hai đoạn Bắc và Nam thị xã Bình Long…”, Tư lệnh Đoàn 301 nhấn mạnh, “Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ bằng được khu vực Tàu Ô để tạo thời cơ và điều kiện cho Chiến dịch đánh dứt điểm Chi khu Lộc Ninh và tiến công Tiểu khu Bình Long; đồng thời tạo bàn đạp và đầu cầu vững chắc cho Chiến dịch phát triển xuống Lai Khê, Bến Cát hoặc sang Tây Ninh. Nếu để mất nó là mất luôn bàn đạp, mất luôn thế chiến dịch”.

Về lực lượng, trang bị, Sư đoàn 7 nhận nhiệm vụ tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ trong điều kiện đơn vị đang tổng kết nhiệm vụ năm 1971; kiện toàn lại tổ chức, biên chế; quân số đại đội bộ binh từ 60 đến 70 cán bộ, chiến sĩ; trang bị có 3 trung liên, một đến hai B41, 5 B40, 1 cối 60mm; tiểu đoàn có 2 đại liên, 2 cối 82mm; Trung đoàn có 3 đại đội hỏa lực (cối 82mm, ĐKZ75mm và 12,8mm). Sư đoàn tiếp nhận các lực lượng mới, gồm Tiểu đoàn 22 cối 120mm; Tiểu đoàn 24 súng máy 12,8mm; đại đội hỏa tiễn chống tăng B72 và đại đội tên lửa phòng không A72; bổ sung, thành lập mới Tiểu đoàn 25 Công binh, Tiểu đoàn 27 Trinh sát, Tiểu đoàn 29 Vận tải, Tiểu đoàn 33 Quân y.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Chiến dịch, Sư đoàn 7 đã tiến hành chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ về mọi mặt. Cùng với làm tốt công tác quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nhiệm vụ chốt chặn Tàu Ô, xây dựng bản lĩnh, ý chí quyết tâm chiến đấu cho bộ đội, Sư đoàn đã cử hai đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường, xây dựng phương án chốt chặn, đánh địch,… sau đó, tổ chức huấn luyện, luyện tập theo các phương án đã dự kiến.

Ngày 01 tháng 4 năm 1972, cùng lúc Sư đoàn nhận được “Lệnh hỏa tốc số 1” của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và “Thư động viên” của Trung ương Cục. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn đã đoàn kết, đồng lòng, phấn khởi tham gia lễ xuất quân đánh địch. Trên vành mũ, trên báng súng của mỗi cán bộ, chiến sĩ đều dán khẩu hiệu “Khẩn trương, linh hoạt, mang nặng, đi gọn, đánh thắng trận đầu, lập công liên tục”. Nhờ đó, các đơn vị của Sư đoàn đã chủ động tạo thế, chuẩn bị, hoàn chỉnh thế trận, trận địa chốt chặn; kiên cường ngăn chặn địch, kết hợp với vận động luồn sâu, bao vây, chia cắt, đánh địch liên tục, dài ngày.

Khu vực phòng ngự chốt cắt của Sư đoàn 7 trên đường 13 dài gần 20 km; đoạn từ Nam Bình Long đến Bắc Chơn Thành khoảng hơn 10km, rộng khoảng hơn 5km. Trong đó, ta xác định trọng điểm là khu vực Tàu Ô - xóm Ruộng dài khoảng 2km, rộng khoảng hơn 1km (thuộc ấp 4, xã Tân Khai, huyện Hớn Quản ngày nay) để xây dựng khu vực phòng ngự chốt cắt then chốt. Đây là nơi có phong trào chiến tranh nhân dân phát triển cao, Sư đoàn có điều kiện để xây dựng thế trận liên hoàn, vững chắc. Trong tiến trình của Chiến dịch, nhận rõ yêu cầu, nhiệm vụ, Sư đoàn 7 đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân địa phương, chiến đấu kiên cường, thực hiện “chốt cứng, chặn đứng, giữ vững trận địa dài ngày, không cho xe dưới lên, trên xuống”; hình thành thế bao vây, chia cắt chiến dịch ngay từ đầu; chặn được bộ binh, bộ binh cơ giới thuộc lực lượng của địch lên tăng viện đường bộ và ngăn không cho địch tháo chạy về Sài Gòn; đồng thời bảo đảm cho lực lượng chủ yếu của Chiến dịch tiến công, tiêu diệt địch ở khu vực Lộc Ninh và An Lộc (Bình Long).

Trong suốt 150 ngày đêm (từ ngày 05/4/1972 đến 28/8/1972), địch trút xuống khu vực này không biết bao nhiêu tấn bom, đạn với nhiều thủ đoạn đánh phá thâm độc, tạo ra thế cài xen, giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Chúng cho rằng “Cộng sản có là sắt thép cũng phải tan chảy thành nước, cũng phải bị nghiền nát thành tro bụi”. Tuy nhiên, cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn đã nêu cao phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, kiên cường bám trụ “một tấc không đi, một ly không dời”, “người còn, trận địa còn”. Chính vì vậy, Sư đoàn 7 đã tổ chức đánh gần 800 trận lớn, nhỏ với nhiều hình thức khác nhau: đánh phục kích, tập kích, vây ép,… tiêu diệt: 8.189 tên; bắt: 211 tên ngụy; bắn rơi và phá hủy: 119 máy bay các loại; phá hủy: 202 xe các loại, 102 khẩu pháo, 20 hầm đạn và nhiên liệu, 3 hệ thống siêu tần số; thu 390 súng các loại. Song, bên cạnh những chiến công vang dội ấy, cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn cũng phải chịu nhiều hy sinh, mất mát, với 1.062 cán bộ, chiến sĩ hy sinh; hơn 25 cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang địa phương cũng đã hy sinh; nhiều quần chúng nhân dân ngã xuống trong chiến dịch này. Đến cuối tháng 8 năm 1972, Sư đoàn 7 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chốt chặn Tàu Ô trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, được Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy Miền trao cờ thưởng luân lưu “Quyết chiến quyết thắng” có hình Chủ tịch Hồ Chí Minh lần thứ hai. Cũng sau chiến dịch này, Sư đoàn 7 vinh dự là một trong những Sư đoàn được giữ cờ thi đua “Quyết chiến quyết thắng” vĩnh viễn.

 Như vậy, có thể khẳng định rằng, chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô là chiến thắng của sự phối hợp nhịp nhàng và lòng dũng cảm, mưu trí, sáng tạo; vận dụng linh hoạt cách đánh chốt kết hợp với vận động, tập trung lực lượng đánh vận động là chính; kết hợp phòng ngự với tiến công của Sư đoàn 7 và quân, dân địa phương trên địa bàn tác chiến. Chiến thắng Tàu Ô là thành quả của sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng, song, Sư đoàn 7 có vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong các trận đối đầu quyết liệt với quân ngụy và không quân Mỹ. Chính vì vậy, Sư đoàn đã đánh thiệt hại nặng quân địch, buộc chúng phải rút chạy khỏi khu vực tác chiến, từ bỏ ý đồ giải tỏa đường 13; đặc biệt là đoạn từ Chơn Thành lên thị xã An Lộc. Cuộc chiến đấu trên đường 13 của Sư đoàn 7 cũng chính là đòn đánh làm cho quân Mỹ - ngụy kinh hồn, bạt vía. Con đường này, trước đây đã là “con đường không vui” đối với lính Mỹ của các sư đoàn “Anh cả đỏ”, “Tia chớp nhiệt đới”, “Kỵ binh bay”; là con đường “máu và nước mắt” của lính Sư đoàn 5 bộ binh ngụy; thì giờ đây, nó là “con đường khủng khiếp nhất” đối với tất cả những sư đoàn, lữ đoàn quân ngụy Sài Gòn bị ném vào cái chiến trường này. Điều đó đúng như bài “Thiên Anh hùng ca đường 13” đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày ấy, đã viết: “Chiến sĩ Quân giải phóng trên đường 13 đã chiến đấu liên tục, bền bỉ dài ngày với một niềm lạc quan cách mạng. Với ý chí và quyết tâm cao, quân và dân miền Đông Nam Bộ anh hùng đã biến con đường này thành con đường sấm sét và máu lửa của Mỹ - ngụy, đã gieo khiếp sợ cho kẻ thù và làm kinh ngạc cả thế giới…”.

Với Chiến thắng chốt chặn Tàu Ô trên đường 13 của Sư đoàn 7 và quân, dân địa phương trên địa bàn, đã góp phần quan trọng vào chiến thắng vang đội làm “rung chuyển miền Đông Nam Bộ” của Chiến dịch Nguyễn Huệ trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đưa Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới; cùng với chiến thắng của quân và dân ta trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” tại Thủ đô Hà Nội, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta về vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Hiện nay, Sư đoàn 7 là đơn vị khung thường trực, làm nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc Quân đoàn 4, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật; huấn luyện dự bị động viên theo Chỉ lệnh của Bộ Quốc phòng trên địa bàn các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tiền Giang. Tự hào và phát huy truyền "Đoàn kết - Anh hùng - Thắng quân xâm lược", đặc biệt là tinh thần quả cảm, ý chí, quyết tâm chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ trong chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 7 tiếp tục nêu cao lý tưởng cách mạng, nhận thức sâu sắc yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời, tiếp tục củng cố, tôn tạo khu di tích, Đài tưởng niệm chiến thắng Tàu Ô; tích cực tuyên truyền về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng quan trọng này cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn hôm nay và mai sau. Tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh "tiêu biểu", cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cùng với đó, Sư đoàn tăng cường giao lưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác dân vận, đền ơn đáp nghĩa, nhất là nơi đơn vị thành lập và địa bàn đã từng đóng quân và chiến đấu, như: xã Bù Gia Mập, Tân Khai,… của huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước và nhiều địa phương khác.

 

No comments:

Post a Comment